domain, domain name, premium domain name for sales

Tuesday, June 30, 2015

Chênh lệch thương mại và chênh lệch kỳ hạn

       Giá chuyển khoản là lãi suất tham chiếu nội bộ dùng để chuyển giao vốn nội bộ và phân bố thu nhập. Chúng cũng dùng để đặt ra những tiêu chuẩn định giá. FTP nên đưa ra những tiêu chuẩn kinh tế cho chi phí cấp vốn thông qua markup và markdown (giá bổ sung lên/xuống) để đạt được tính lợi nhuận mục tiêu của ngân hàng. Vì các ngân hàng không muôn chênh lệch thương mại tăng hoặc giảm với lãi suất, hệ thống FTP phải chuyển giao rủi ro lãi suất và rủi ro thanh khoản cho đơn vị trung ương ALM, chịu trách nhiệm quản lý rủi ro.

        Phần 29.1 sẽ cho thấy giá chuyển giao đúng phải dựa hên thị trường để tránh ac-bit nội bộ của các đơn vị kinh doanh và ac-bit bên ngoài bởi người đi vay. Có sự khác biệt giữa “giá chuyên khoản thuần túy” có mục đích duy nhất là chuyển tiền giữa các đơn vị với chi phí vốn “bao gồm tất cả”, bao gồm chi phí hoạt động cộng với markup cho chi phí rủi ro, có mục đích xác lập giá cho khách hàng dựa trên rủi ro. Phần 29.2 định ra những tiêu chuẩn kinh tế cho giá chuyển giao cho các hoạt động cho vay. Phần 29.3 nói về vấn đề đó với các đơn vị thu nhận tiền. Phần 29.4 làm rõ các điều kiện đảm bảo chuyển giao hiệu quà rủi ro lãi suất cho đơn vị ALM. Phần 29.5 nói về định giá dựa trên rủi ro với cho vay.

Chênh lệch thương mại


CHÊNH LỆCH THƯƠNG MẠI VÀ CHÊNH LỆCH KỲ HẠN

        Nguyên tắc cơ bản để xác định những giá chuyển giao “kinh tê”’ là liên hệ với giá thị trường vì cơ hội ac-bit giữa lãi suất ngân hàng và lãi suất thị trường nảy sinh khi chênh lệch tổn tại. Các tiêu chuẩn kinh tế xuất phát từ giá thị trường. Mark-up hay mark-down so với các tiêu chuẩn sẽ phục vụ cho việc định giá trong tương quan với tính lợi nhuận mục tiêu của ngân hàng. Trong phần này và những phần sau, chúng ta bỏ qua mark-up và mark-down thương mại và đoạn cuối cùng trong chương này sẽ thảo luận có thể làm gì với những mark-up và mark-down “thương mại thuần túy” đó. Chúng độc lập với mục tiêu lợi nhuận của ngân hàng.

       Chênh lệch giữa giá khách hàng của ngân hàng với lãi suất thị trường sẽ tạo ra ac-bit của khách hàng và các đơn vị kinh doanh. Để đảm bảo ngân hàng có biên là số dương bất kể ở lãi suất nào, cần phải liên hệ giá chuyển khoản với kỳ hạn vì câu trúc kỳ hạn của lãi suất thông thường không phẳng. Trường hợp giao dịch trả một lần là dễ phân tích nhất. Giá khoản vay trả một lẩn nên cao hơn lãi suất thị trường của cùng kỳ hạn đó. Lãi suất tiền ký gửi kỳ hạn nên thấp hơn lãi suất thị trường của cùng kỳ hạn. Lãi suất tiền ký gửi yêu cầu nên thấp hơn lãi suất ngắn hạn. Khi cho vay cao hơn lãi suất thị trường, ngân hàng có thể mượn tiền từ thị trường và có chênh lệch dương bất kể kỳ hạn là gì. Khi thu nhận nguồn tiền dưới lãi suất thị trường, ngân hàng có thể đầu tư chúng vào thị trường và có lãi. Hình 29.1 mình họa cho kế hạch định giá đơn giản này, áp dụng cho mọi khoản vay trả một lần và tiền ký gửi.


Đọc thêm tại : http://timhieukienthucnganhang.blogspot.com/2015/06/chia-nho-bien-thanh-nhung-ong-gop-cua.html


Từ khóa tìm kiếm nhiều:tài sản tài chính, thanh khoản

Những vấn đề cần xử lý của giá chuyển khoản

     Nếu các đơn vị kinh doanh mua nguồn tiền ở giá thấp hơn thị trường, họ có thể làm giảm giá cho vay với khách hàng hoặc các đơn vị mua bán có thể giữ những danh mục đầu tư của những tài sản ở giá thấp hơn thị trường.

    Nếu ngân quỹ hay ALM đánh phí các đơn vị thương mại cao hơn lãi suất thị trường, nó sẽ khuyên khích việc đi vay từ thị trường và tạo ra những chướng ngại cho phát triển. Với danh mục đầu tư ngân hàng, vấn đề để xác định tham chiêu kinh tế là tìm ra chính xác chi phí cho vay và doanh thu từ thu thập tiền ký gửi. Với các hoạt động thị trường, vân đề là sử dụng một giá vốn phù hợp với thị trường để tránh ac-bít nội bộ của các đơn vị kinh doanh.

giá chuyển khoản


Giá chuyển khoản phải xử lý hai vấn đề:
• Chi phí chuyên tiền từ những đơn vị dư thừa sang những đơn vị thiêu hụt vốn nền là bao nhiêu
• Với danh mục đầu tư cho vay, chi phí tiêu chuẩn để cấp là gì để định giá?

       Trong trường hợp đầu tiên, giá chuyển khoản nên trung hòa, không phạt hay trợ cấp các đơn vị kinh doanh. Giá chuyển khoản kinh tế dùng để chuyển tiền và phân bố thu nhập. Nó cũng dùng để tìm ra việc định giá sai, là chênh lệch giữa giá thực và giá mục tiêu dựa trên rủi ro, để báo cáo và sửa sai.

      Trong thực tế có một vài quan niệm định giá, kết hợp những tiêu chí kinh tế và thương mại. Có thể phân biệt chúng trước khi gộp lại trong một khung thống nhất:

• Định giá dựa trên rủi ro là tiêu chuẩn và thuần túy mang tính kinh tế. Nó đòi hỏi hai thành phần cơ bản: chi phí vốn và mark-up (giá bổ sung). Mark-up với rủi ro tín dụng nên phân biệt lãi suất dành cho người đi vay. Nó dựa trên hê thông phân phối rủi ro tín dụng, phân bố chi phí vốn cho mỗi giao dịch, dựa trên những quy định và mô hình kinh tế về vốn kinh tế tín dụng. Chúng sẽ coi như sự phân phối vốn đó là có sẵn và chi tập trung vào chi phí kinh tế của vốn.

• Định giá thương mại nói tới mark-up và mark-down so với tiêu chuẩn kinh tế đơn thuần vì các mục đích chính sách kinh doanh, tạo ra động lực và hình phạt đế quảng bá một số sản phẩm. Những mark-up và mark-down đó hoàn toàn bị chi phối bởi kinh doanh thay vì mục tiêu lợi nhuận.

      Giá chuyển giao dùng để làm cơ sở cho trao đổi vốn nội bộ và xác định chi phí vốn “bao gồm tất cả”. Chi phí đó nên bao gồm chi phí hoạt động đế giá trị đóng góp đủ cao để hấp thụ chi phí hoạt động. Các giá dựa trên rủi ro cũng phải được cộng chi phí rủi ro khi cho vay. Để phân biệt chi phí bao gồm tất cả của vốn và giá chuyển khoản dùng để trao đổi tiền giữa các đơn vị, chúng ta gọi khái niệm thứ hai là “giá chuyển khoản thuần túy”. Chi phí vốn bao gồm tất cả dùng cho mục đích định giá, không phải để trao đổi vốn nội bộ.


Đọc thêm tại : http://timhieukienthucnganhang.blogspot.com/2015/07/chenh-lech-thuong-mai-va-chenh-lech-ky.html


Từ khóa tìm kiếm nhiều:phương pháp định giá, thanh khoan

Chi phí của những nguồn tiền hiện tại


       Giá chuyển khoản dựa trên định nghĩa các nguồn vốn hỗ trợ các tài sản. Một cách nhìn là những tài sản và nguồn tiền hiện tại. Giả định cơ sở là những nguồn tiền hiện có đúng bằng tài sản.

       Cách nhìn thứ hai bao gồm xác lập một giải pháp cấp vốn tham chiếu phản ánh chính xác những tài sản được cấp vốn, và sử dụng chi phí của giải pháp này làm giá chuyển khoản.

Chi phí của những nguồn tiền hiện tại

        Sử dụng những nguồn tiền hiện tại có vẻ hợp lý. Những nguồn tiền này cấp vốn cho các tài sản nên chi phí của chúng đáng quan tâm. Tuy nhiên, giải pháp này gây ra một số vấn đề khái niệm. Có nhiều loại tài sản và nợ với những đặc điểm khác nhau. Mỗi loại nguồn tiền có một chi phí khác nhau. Do đó, ta có thể dùng Wacc (chi phí vốn bình quân gia quyền) – chi phí trung bình của nguồn tiền. Một giải pháp khác là khớp các tài sản và nguồn tiền dựa trên những đặc tính giông nhau. Ví dụ, ta có thể ứng những nguồn tiền dài hạn với tài sản dài hạn.

nguồn tiền


        Đây là lý do chi các nguồn vốn tùy theo kỳ hạn. Nguyên tắc này cũng đặt ra một số vân đề. Vì lượng tài sản và nguồn tiền của mộc hạng mục (ví dụ các khoản dài hạn) thường khác nhau, việc khớp không thể chính xác. Nếu tài sản dài hạn có lượng lớn hơn nguồn tiền dài hạn, những nguồn tiền khác phải bù cho thiêu hụt đó. Phải có những nguyên tắc để xác định những nguồn tiền nào sẽ bù cho chênh lệch đó và chi phí vốn sẽ phụ thuộc vào những quy ước đó.
       Hơn nữa, sử dụng chi phí của nguồn tiền hiện tại có thể “không công bằng” với những nguồn tiền thu được từ khách hàng. Một nguồn tiền rẻ, ví dụ như tiền ký gửi, hỗ trợ cho tính lợi nhuận của tài sản. ứng một khoản nợ dài hạn với tiền ký gửi yêu cầu có thể chấp nhận được nếu xét về kỳ hạn. Tuy nhiên, kết hợp như vậy thật ra chuyển giao chi phí thấp của tiền ký gửi sang biên phân bố cho các khoản vay. Tuy nhiên, nó còn giả định ngầm là những tiền ký gửi mới sẽ cấp vốn cho những khoản vay mới, đây là điều không thực tế.

       Vì những sự thiêu thống nhất và giả định thiêu thực tế đó, ứng tài sàn với nguồn tiền hiện tại không hợp lý về kinh tế. Giá chuyển giao cần những tiêu chuẩn khác.



Đọc thêm tại : http://timhieukienthucnganhang.blogspot.com/2015/07/nhung-van-e-can-xu-ly-cua-gia-chuyen.html


Cấp vốn “danh nghĩa” cho các khoản vay

       Giải pháp cấp vốn duy nhất làm trung hòa cả rủi ro thanh khoản và rủi ro lãi suất của một tài sản cụ thể là các cấp vốn “phản chiếu” hồ sơ thời gian của các dòng tiền và lãi suất. Với một khoản vay kỳ hạn lãi suất cố định, cấp vốn nên sao chép chính xác hổ sơ khấu hao và mang một lãi suất cố định.

     Cấp vốn như vậy gọi là “danh nghĩa” thay vì có thực. Nó không phụ thuộc vào những nguồn tiền hiện tại. Nó không đòi hỏi ALM phải khớp dòng tiền hoàn toàn. Nó dùng làm một tiêu chuẩn để xác định chi phí của vốn hỗ trợ cho một tài sản bất kỳ.

       Trong một số trường hợp, sự sao chép là rõ ràng và chi phí vốn được xác định dê dàng. Một khoản nợ trả một lần khớp với một khoản vay trả một lần. Lãi suất quan trọng là lãi suất thị trường ứng với kỳ hạn của giao dịch. Nói chung, cấp vốn “danh nghĩa” khác. Với một khoản vay trả dần, số nợ dư thay đổi theo thòi gian cho tới ngày đáo hạn. Sử dụng lãi suất thị trường của kỳ hạn này có nghĩa là ta cấp vốn cho một khoản vay trả dần với một khoản nợ trả một lần, điều này sẽ không nhất quán, vốn sao chép hồ sơ thời gian của khoản vay là một khoản nợ trả dần với thời gian biểu trả nợ giống như khoản vay.

Cấp vốn


        Giá chuyển khoản là chi phí của khoản nợ như vậy. Nó là sự kết hợp các khoản nọ ở những kỳ hạn khác nhau. Trong ví dụ dưới đây, khoản vay 100 trả dần trong 2 năm, trả lại vốn là 40 và 60 cho hai năm. Hình 29.2 minh họa hổ sơ của khoản nợ tham chiếu. Giải pháp cấp vốn kết hợp hai khoản nợ trả một lần, kỳ hạn 1 và 2 năm ký hợp đồng ờ lãi suất thị trường.

      Giải pháp cho lãi suất thả nổi đơn giản hơn với lãi suất cố định. Với những giao dịch lãi suất thả nổi, vốn sao chép là một khoản nợ lãi suất thả nổi với ngày định lại lãi suất trùng với ngày của tài sản. Hổ sơ trả dần sẽ hoàn toàn giống như của tài sản lãi suất thả nổi.



Đọc thêm tại:

Chi phí của khoản nợ “phản chiếu”

      Chi phí của khoản nợ “phản chiếu” là lợi nhuận của nó. Với một khoản vay lãi suất cố định, khoản nợ sao chép có thể được phân tách thành một vài khoản nợ không trái tức với lượng và kỳ hạn ứng với hổ sơ thời gian của khoản nợ trả dân.

       Lợi nhuận có thể được biểu diễn bằng một hàm của các lãi suất không trái tức. Trong ví dụ trên, có hai ‘lớp’ nợ: 60 trong hai năm và 40 cho một năm. Lãi suất cần thiết là những lãi suất giao ngay cho những kỳ hạn đó. Tuy nhiên, chi nên có một giá chuyển khoản duy nhất với một khoản vay. Đó là chi phí vốn trung bình của hai khoản nợ. Định nghĩa chính xác là tỷ lệ chiết khấu làm cho giá trị hiện tại cả những dòng tiền tương lai tạo ra từ hai khoản nợ đúng bằng khoản tiền được mượn.

Chi phí


      Dòng tiền ra tương lai là thanh toán vốn và lãi. Dòng tiền vấn tích lũy dòng tiền với lãi suất một năm và hai năm. Nếu các khoản nợ không có trái tức, việc trả lãi xảy ra vào ngày đáo hạn. Dòng tiền là 40(1 + r1 )trong một năm và 60(1 + r2) trong hai năm. Lợi nhuận y từ việc cấp vốn tổng hợp này là tỷ lệ chiết khấu y sao cho tỷ lệ chiết khấu sẽ nằm giữa hai lãi suất thị trường. Một nghiệm xấp xỉ sử dụng phép xấp xỉ tuyên tánh y là bình quân gia quyền của các lãi suất giao ngay cho 1 và 2 năm, sử dụng các trọng số kê! hợp kích cỡ của mỗi hoàn nợ và kỳ hạn của nó. Với lãi suất r, =8% và r2 =9%, r = 8,75%. Lãi suất gần với 9% hơn vì khoản nợ hai năm có lượng lớn hơn và kỳ hạn dài hơn.
Trong thực tế, nêu đã biết sơ thời gian các khoản vay và lãi suất thị trường hiện tại, bảng giá chuyển khoản cho biết lợi nhuận của khoản nợ ‘sao chép’, kết hợp các lãi suất thị trường.

Lợi ích từ khoản nợ phản chiếu

    Sử dụng chi phí vốn của một khoản nợ hoàn toàn sao chép tài sản tạo ra nhiều lợi ích kinh tế. Việc khớp hoàn toàn dẫn tới:
• Biên của tài sản miễn dịch với những thay đổi lãi suất
• Không cẩn các quy tắc để ân định nguồn tiền có sẵn với việc sử dụng vốn
• Không cần chuyển giao thu nhập tạo ra bằng cách thu thập nguồn tiền vào thu nhập từ hoạt động cho mượn
• Tính toán các giá chuyển khoản rất đơn giản

    Sử dụng lợi nhuận của cấp vốn danh nghĩa sao chép khoản vay làm giá chuyển khoản hoàn toàn đáp ứng những yêu cầu về sự thống nhất.
     Khoản nợ sao chép được xác định cho một khoản vay có thời gian biểu kỳ hạn. Tuy nhiên, những kỳ hạn hợp đồng không phải là kỳ hạn thực, vì những lý do ví dụ như trả trước khoản vay thế chấp. Trong những trường hợp đó, ta phải bổ sung chi phí quyền chọn trong việc định giá, cộng chênh lệch điều chinh theo quyền chọn trong chi phí vốn bao gồm tất cả. Việc cấp vốn sao chép hổ sơ thời gian của phần đã rút sử dụng lãi suất thả nổi và ngày đặt lại ứng với chỉ số tham chiếu dùng cho hạn mức tín dụng. Tuy nhiên, các vân đề của hạn mức không có kỳ hạn còn quan trọng hơn đối với tiền ký gửi.
      Đơn vị ALM không nhất thiết phải dùng chính sách cấp vốn thực sự miễn dịch biên lãi của ngân hàng. Khoản nợ sao chép các đặc điểm của tài sản là một “khoản nợ danh nghĩa”. Chính sách ALM thường không hoàn toàn giống với việc khớp các dòng tiền hoàn hảo, vì nó muốn có một vị thế mở, ví dụ do sự tổn tại của những khoản tiền ký gửi không đòi hỏi tăng nợ tài chính trong thị trường.






Từ khóa tìm kiếm nhiều:bao cao tai chinh ngan hang, thanh khoản

Monday, June 29, 2015

FTA và BIT của Việt Nam


Các Thỏa thuận Thương mại tự do (FTA) mà Việt Nam đã tham gia hoặc đang đàm phán ký kết (tính tới thời điểm 31/05/2015)

 
Các Hiệp định Đầu tư song phương (BIT) mà Việt Nam đã ký kết (tính tới thời điểm 30/04/2015)

 
(Click vào hình để xem rõ hơn)
 
Nguồn: Economica Vietnam; truongductrong.blogspot.com

Đo lường thua lỗ tiềm năng

     Có nhiều thước đo thua lỗ tiềm năng: thua lỗ đoán trước (EL), bách phân vị thua lỗ thua lỗ không đoán trước (UL) và những thua lỗ ngoại lệ. Có thể định nghĩa một vài thước đo khác, ví dụ “thiếu hụt dự đoán” hay thua lỗ dự đoán vượt qua một bách phân vị thua lỗ.

    Tất cả những thước đo đó sẽ được định nghĩa chính thức ở phần sau, ở đây chúng ta sẽ chỉ xem xét những định nghĩa rộng.

Thua lỗ đoán trước

     Thua lỗ đoán trước là trung bình gia quyền của tất cả những thua lỗ có thề. Nó được sử dụng rộng rãi với thua lỗ tín dụng, đặc biệt khi có một danh mục đầu tư lớn của các khoản vay. Trong dịch vụ tài chính bán lẻ, danh mục đầu tư mang tính ‘sạn’, nghĩa là tất cả các nguy cơ đều nhỏ so với kích thước danh mục đầu tư và không có giá trị lớn.

     Thua lỗ dự đoán là giá trị kỳ vọng của phân phổi thua lỗ và tạo ra nền tảng cho dự phòng kinh tế. Thước đo thua lỗ dự đoán sử dụng trong Basel 2 áp dụng với thua lỗ tín dụng. Đối với rủi ro thị trường, khung thời gian ngắn hơn với rủi ro tín dụng và p & L dự đoán từ danh mục đầu tư trao đổi thưởng không được tính đến.

     Thua lỗ rủi ro sẽ không bao giờ bằng với giá trị kỳ vọng đó. Đôi khi chúng sẽ cao hơn hoặc thấp hơn. Với một nguy cơ, thua lỗ thật sự không bao giờ bằng với trung bình vì chỉ có thể bằng 0 hoặc bằng thua lỗ khi vỡ nợ. Mặt khác, đổi với một danh mục đầu tư, thua lỗ dự đoán là giá trị kỳ vọng của phân phôi thua lỗ.

thua lỗ


   Bách phân vị thua lỗ

     Một thua lỗ tiềm năng là một bách phân vị thua lỗ được xác định với một mức độ tin cậy định trước. Ngưỡng thua lỗ là L(a) với a là xác suất vượt qua L{à). Ví dụ, nếu L(l%) bằng 100, điều đó có nghĩa thua lỗ sẽ không vượt quá 100 trong hơn 1% các trường hợp. Xác định thua lỗ tiềm năng ở những mức độ tin cậy khác nhau đòi hỏi cần có một phân phối thua lỗ của danh mục đầu tư. Phân phổi thua lỗ đưa ra tần suất của những giá trị thua lỗ có thể. Nó rất nhạy với tính phụ thuộc giữa các vị thế. Đây là một thách thức lớn trong việc đo lường bách phân vị thua lỗ trong các mô hình danh mục đầu tư tín dụng và được xử lý ở Mục 9 (tính phụ thuộc) và mục 12 (các mô hình danh mục đầu tư tín dụng).




Từ khóa tìm kiếm nhiều:bao cao tai chinh ngan hang, thanh khoản

Trao đổi vốn giữa các đơn vị

     Nếu giá quá cao thì điều ngược lại xảy ra. Những đơn vị liên quan tới thị trường cũng có thể ac-bit giá nội bộ khi có sự chênh lệch. Ví dụ, nếu giá chuyển khoản thấp hơn thị trường, nắm giữ tài sản đảm bảo một chênh lệch cao hơn giá chuyển khoản trở nên dễ dàng.

    Có nhiều trường hợp khi những động lực không mang tính kinh tế như vậy xuất hiện. Một ví dụ là trong Báo Cáo Cổ Đông UBS, trong đó ghi nhận giá chuyển khoản thấp hơn thị trường cho phép tích lũy những khoản vay dư thừa quá lớn để chứng khoán hóa sau này.

     Trong chương này, chúng tôi coi ALM như đơn vị chịu trách nhiệm cho hệ thống và những đơn vị quản lý khác là người sử dụng hệ thông. Quỹ vốn là nơi tất cả các nguồn vốn, dư thừa hay thâm hụt, được tập trung. Có một vài giải pháp tổ chức hệ thống. Một lựa chọn là quyết định số dư nào được bù trừ và như thế nào.

Trao đổi vốn


Trao đổi vốn giữa các đơn vị 

    Khả năng đầu tiên là FTP bù lượng dư thừa của một số đơn vị kinh doanh cho thâm hụt của những đơn vị khác. Quỹ vốn trung tâm bù trừ thặng dư/thâm hụt của những đơn vị khác nhau. Trao đối số dư thực của những đơn vị kinh doanh thông qua một quỹ trung tâm là một ý tưởng rất đơn giản. Giá chuyển khoản chi ứng với những số dư thực. Một hệ thống như vậy “bị động” và chỉ ghi lại thặng dư/thâm hụt và bù trừ chúng (hình 28.1). Một số hệ thống sử dụng nhiều quỹ vốn, ví dụ nhóm chúng theo kỳ hạn và đặt giá theo kỳ hạn.

     Vì tài sản và nợ được bù trừ trước khi chuyển tới quỹ tập trung, tất cả tài sản và nợ của A và B không đi qua hệ thống. Nhược điểm của phiên bản này là giá chuyển giao không áp dụng với tất cả tài sản và nợ. Do đó, đây không phải là một hệ thông phân phối thu nhập. Ví dụ, hãy xem xét một khoản vay không được chuyển tới quỹ trung tâm vì nó không được nhóm trong số dư thực. Không có giá nào gắn với việc cấp vốn cho khoản vay đó và không thể tính chênh lệch cho khoản vay. Hon nữa, không thể quyết định khoản vay nào nên được trao đổi thông qua quỹ và khoản vay nào không thuộc về số dư thực nhưng vẫn được trao đổi. Do đó, hệ thống đơn giản này không khả thi.


Đọc thêm tại : http://timhieukienthucnganhang.blogspot.com/2015/06/o-luong-thua-lo-tiem-nang.html


Phân phối thu nhập thông qua hệ thống FTP

    Các phép tính sử dụng một ví dụ đơn giản. Phạm vi tính toán biên thương mại là toàn bộ bảng cân đôi kế toán của tất cả các đơn vị kinh doanh. Những chi phí hoạt động không được tính ở phần sau, chỉ có doanh thu và chi phí lãi được xem xét.

    Đối với ngân hàng, ta chi cần cộng tất cả các doanh thu từ cho vay và đi vay với khách hàng, bao gồm bất kỳ doanh thu hay chi phí vay/cho vay nào trong thị trường.


• Với những đơn vị cho vay, doanh thu xuất phát từ chênh lệch giữa giá khách hàng và chi phí vốn nội bộ ở giá chuyển khoản từ đơn vị trung tâm ALM.
• Với các đơn vị thu thập nguồn tiền từ người ký gửi, chi phí xuất phát từ lãi trả cho khách hàng và doanh thu phát sinh từ bán những nguồn tiền này cho ALM ở giá chuyển khoản
• Với đơn vị ALM, doanh thu bắt nguồn từ việc đánh phí vốn với đơn vị cho vay và chi phí xuất phát từ việc mua nguồn tiền từ những đơn vị thu nhặn tiền ký gửi của khách hàng. Hơn nữa, ALM phải chịu một chi phí lãi khi cấp vốn cho một khoản thâm hụt và nhận được doanh thu thị trường từ việc đầu tư tiền dư thừa.

chi phí vay


     Các phép tính thu nhập sử dụng một bảng cân đối kế toán đơn giản hóa. Sau khi tính toán biên kế toán của ngân hàng, chúng ta tiếp tục bằng cách chia nhỏ nó theo các đơn vị kinh doanh và ALM sử dụng giá chuyên khoản. Hệ thống có thể tích hợp phân phối chi phí hoạt động để hoàn thiện báo cáo thu nhập và phân tách những giá chuyến giao khác nhau cho từng giao dịch riêng lẻ. Miễn là ALM ghi chép những giao dịch nội bộ chính xác, Nn chung của ngân hàng có thể thống nhất với NII phân phối cho các nghiệp vụ giao dịch.


Từ khóa tìm kiếm nhiều:dòng tiền, tính thanh khoản

Nil kế toán của ngân hàng

    Bảng cân đối kế toán kinh doanh tạo ra một khoản thâm hụt được ALM cấp vốn. Giá khách hàng trung bình với người đi vay là 12% và lãi suất khách hàng trung bình trá cho người gửi tiến là 6%. ALM mượn từ thị trường ờ lãi suất thị trường hiện tại 9%.

    Chỉ có một giá chuyển giao duy nhất. Nó ứng với cả tài sản ALM bán đi cho các đơn vị kinh doanh và nguồn tiền ALM mua từ các đơn vị. Giá trị duy nhất này là 9,20%. Hãy chú ý giá trị này khác lãi suất thị trường một cách có chủ ý. Có thể có một vài giá chuyển khoản, nhưng nguyên tắc thì vẫn như vậy. Bảng 28.1 tóm tắt bảng cân đối kế toán và lãi suất khách hàng trung bình.

     Cơ chế giá chuyển khoản đảm bảo sự nhất quán của tất cả các báo cáo thu nhập phân tích của các đơn vị kinh doanh với NII của ngân hàng. Nếu giá chuyển khoản thay đổi, chúng chi chuyển thu nhập từ ALM sang các đơn vị kinh doanh chứ không thay đổi NII của ngân hàng. Để minh họa cho quá trình, ta chia nhỏ ngân hàng thành ba đơn vị kinh doanh:

Nil kế toán


• Thu thập nguồn tiền
• Phát hành nợ
• ALM, quản lý rủi ro tài chính tháng

     Bảng cân đối kế toán nằm trong bảng 28.1. Lượng các khoản vay, tiền ký gửi và cấp vốn ngoài đều thuộc kiểm soát của ba đơn vị kinh doanh này.
     Phép tính biên kế toán rất đơn giản vì nó chỉ phụ thuộc vào lãi suất khách hàng và chi phí cấp vốn của ALM:

2000 x12% -1200 x 6% – 800 x 9% = 96


Đọc thêm tại : http://timhieukienthucnganhang.blogspot.com/2015/06/phan-phoi-thu-nhap-thong-qua-he-thong.html


Từ khóa tìm kiếm nhiều:dong tien, thanh khoản

Chia nhỏ biến thành những đóng góp của các đơn vị kinh doanh

      Từ lãi suất khách hàng trung bình và giá chuyến khoản được định ra bởi ALM (giả định biểu đổ lợi nhuận phẳng), ta tính NII của mỗi đơn vị thương mại mua hoặc bán với AL1V (bảng 28.2). Đơn vị ALM mua và bán các khoản vốn nội bộ và cấp vốn từ bên ngoài cho những thâm hụt của ngân hàng.

      Với một giá nội bộ duy nhất 9,20%, biên thương mại theo phần trăm là 12% – 9,20% = : 2,80% với các khoản vay và 6% – 9,20% = -3,20% với tiền ký gửi. Chú ý quy ước dấu của thu nhận tiền: dấu trừ nghĩa là ngân hàng trả cho khách hàng gửi tiền ít hem ALM trả. Nhưng 3,20% là một chênh lệch dương từ đơn vị thu nhận tiền ký gửi.

lãi suất khách hàng


     Tổng NII thương mại là 94,4, thấp hơn NII kế toán của ngân hàng. Tổng NII thương mại bao gồm các đóng góp từ hoạt động cho vay và thu nhận tiền ký gửi. Hoạt động cho vay tạo ra biên 56 và việc thu tiền tạo ra 38,4. Hệ thống phân phôi NII cho các đơn Vị kinh doanh khác nhau. ALM có doanh thu và chi phí đối xứng cộng với chi phí câp vốn cho I khoán thâm hụt 800 từ thị trường. Cộng NII kinh doanh và NII của ALM, ta có NII của ị ngân hàng. NII cửa ALM là số dương vì ALM đánh phí các đơn vị kinh doanh quá cao I với giá chuyển khoản 9,20%, cao hon lãi suất thị trường (9%).

        Nếu NII của ALM bằng không, biên của toàn ngân hàng bằng với NII thương mại. Đây là trường hợp tham chiếu. ALM trung lập và không tạo ra thua lỗ hay lợi nhuận. Khi đó toàn bộ NII của ngân hàng nằm trong các đơn vị thương mại như trong bảng 28.3. Chú ý ta giữ lãi suất khách hàng cố định, để chênh lệch giữa lãi suất khách hàng và giá chuyển khoản thay đối, 9% – 8% = 1% với cho vay và 8%-3% = 5% với thu nhận tiền ký gửi. Rõ ràng, vì lãi suất khách hàng cố định giống như chi phí vốn thị trường, NII của ngân hàng vẫn là 96 (bảng 28.3). Tuy nhiên, sự phân phối NII tổng này giữa các đơn vị kinh doanh và ALM đã thay đổi.

Các ví dụ trên cho thấy:
• Giá chuyển khoản phân bố NII của ngân hàng giữa các đơn vị kinh doanh và ALM
• NII tổng luôn bằng biên lãi thương mại và biên lãi ALM



Đọc thêm tại:


Sunday, June 28, 2015

Hệ thống FTP tính toán số dư các nguồn tiền

    Tất cả các đơn vị kinh doanh của một tổ chức tài chính chia sẻ một nguồn tài nguyên chung: tính thanh khoản. Chức năng đầu tiên của hệ thống định giá chuyển khoản (FTP) là trao đổi vốn giữa các đơn vị kinh doanh và ALM vì các đơn vị kinh doanh không có nguồn tiền và sự sử dụng cân bằng. Hệ thống FTP tính toán số dư các nguồn tiền và sử dụng vốn trong một ngân hàng.

     Sự trao đổi vốn giữa các đơn vị và với ALM đòi hỏi một hệ thống định giá. Giá chuyển khoản dùng để tính toán doanh thu như là chênh lệch giữa giá của khách hàng và tham chiêu nội bộ. Nếu không có những giá đó, sẽ không có cách nào để tính chênh lệch nội bộ của các giao dịch, dòng sản phẩm, phân khúc khách hàng hay thị trường và đơn vị kinh doanh. Giá chuyển khoản tạo ra liên hệ giữa thu nhập toàn ngân hàng và thu nhập của những tiểu danh mục đầu tư và giao dịch riêng lẻ.

ngân hàng


    Phần 28.1 thảo luận tổ chức của các hệ thông FTP và xác định những khoản vốn nào phải đi qua quỹ trung tâm. Có thể dễ dàng thấy, để phân bố thu nhập cho tất cả các giao dịch, số dư của tài sản và nợ của mỗi đơn vị kinh doanh phải đi qua quỹ. Phần 28.2 minh họa cơ chế phân phối thu nhập và chi ra cách để phân phối nhất quán với thu nhập lãi thực của ngân hàng. Điều kiện để đạt được mục tiêu này là tất cả các nguồn vốn đi qua ALM và giá chuyển khoản sẽ dùng để xác lập báo cáo thu nhập của các đơn vị kinh doanh và đơn vị ALM.
Vì việc sử dụng và cung cấp nguồn vốn thường không cân bằng trong các đơn vị kinh doanh, hệ thống FTP cho phép tính toán sự chênh lệch và phân phối vốn tới những đơn vị đang bị thâm hụt thanh khoản hay thu hổi những khoản tiền dư thừa.
Ngân quỹ là đơn vị tạo ra nợ hoặc đầu tư tiền thừa trong thị trường. Chức năng của nó bao gồm đền bù những dư thừa hay thâm hụt tiền trong thị trường vốn. Vì các giá nội bộ dùng để theo dõi chênh lệch thương mại, ban quản lý cũng cẩn có sự kiểm soát. Vì ALM là đơn vị chịu trách nhiệm quản lý nguy cơ thanh khoản và lãi suất của ngân hàng, giá nội bộ nên nhất quán với lựa chọn của ALM. Giá của vốn nội bộ nếu không được xác lập thích đáng có thể tạo ra những khuynh hướng và động lực không hợp lý về mặt kinh tế. Nếu giá quá thấp, điều đó khiến cho các đơn vị kinh doanh có thể tạo ra thu nhập cao hơn dễ dàng hơn và tạo ra động lực để phát triển kinh doanh.


Đọc thêm tại:


Ví dụ về xác suất vỡ nợ

     Bây giờ giả sử công ty có nghĩa vụ trả khoản nợ 60 trong kỳ hạn một năm. Công ty chỉ có thể tuân thủ nghĩa vụ này nếu giá trị tài sản cao hơn lượng tiền phải trả. Xác suất giá trị tài sản thấp hơn 60% là khoảng 20%.

vỡ nợ


    Đây là xác suất vỡ nợ của công ty. Khi tính toán ngưỡng của tỷ số giá trị cuối giá trị đầu, chúng ta nhìn nó theo hai cách. Bách phân vị giá trị là xác suất giá trị sẽ thấp hơn ngưỡng này. Nó là Var cho giá trị của công ty. Rất dễ hiểu khi tỷ số thấp hơn 1 đó là thước đo khả năng thanh toán và rủi ro tín dụng. Nó đo đạc khả năng thanh toán bởi vì tỷ số thể hiện sự sụt giảm trong giá trị cổ phần. Nó đo đạc rủi ro tín dụng vì khi giá trị cổ phần giảm đáng kể, khả năng thanh toán cũng bị suy giảm đến mức uy tín tín dụng cũng tụt giảm đáng kể.

      Điều này còn rõ ràng hơn khi nhìn vào ngưỡng của tỷ số bằng với tỷ số nợ họp đồng so với giá trị tài sản ban đầu. Bách phân vị khiến cho tỷ số bằng với tỷ số nợ so với giá trị tài sản chính là xác suất vỡ nợ của công ty. Nền tảng đánh giá rủi ro cho công ty được phát triển đầu tiên bởi Merton và sau đó được gọi là “mô hình cấu trúc của vỡ nợ”.


Đọc thêm tại : http://timhieukienthucnganhang.blogspot.com/2015/06/he-thong-ftp-tinh-toan-so-du-cac-nguon.html


Từ khóa tìm kiếm nhiều:tài sản tài chính, thanh khoản

Tìm hiểu về phương pháp Var

      Phương pháp Var dùng để xác định vốn dựa trên rủi ro hay vốn kinh tế. vốn kinh tế là vốn cẩn thiết để hấp thụ những thua lỗ bất ngờ ở một mức độ tin cậy nhất định. Mức độ tin cậy thể hiện sự sẵn sàng chấp nhận rủi ro của ngân hàng.

      Theo định nghĩa, nó cũng là xác suất thua lỗ vượt qua vốn, tức là ngân hàng mất khả năng thanh toán. Do đó, mức độ tin cậy bằng với xác suất vỡ nợ của ngân hàng. 

      Trong chương này chúng ta sẽ đưa ra định nghĩa cơ bản làm nền tảng cho những phép đo thua lỗ tương lai. Phần 18.1 trình bày ưu và nhược điểm của thước đo Var. Phần 18.2 tương phản hình dạng của phân phối thua lỗ đối với rủi ro thị trường và rủi ro tín dụng. Phần 18.3 định nghĩa thước đo rủi ro chuẩn chung, thua lỗ đoán trước và thua lỗ không đoán trước, rút ra từ những phân phối đó và được thực hành trong toàn bộ cuốn sách này. Phần tiếp theo giải thích mối quan hệ trực tiếp giữa Var và vốn dựa trên rủi ro. Phần cuối cùng nói tới thước đo “thu nhập gặp rủi ro”, giống như Var là ví dụ về một phương pháp có thể dễ thực hiện nhưng không toàn diện như Var.

      Những đóng góp của các phép đo dựa trên Var
Khái niệm Var quan trọng vì ba lý do:
• Nó đưa ra cái nhìn toàn diện về rủi ro danh mục đầu tư
• Nó đo lường vốn kinh tế
• Nó ấn định những giá trị thay thế cho các rủi ro

thu nhập gặp rủi ro


      Vì Var bao gồm rủi ro tụt giá, nó là cơ sở cho đo lường vốn kinh tế đệm an toàn để hấp thụ các thua lỗ “Thu nhập gặp rủi ro” hay EaR là một phiên bản đơn giản hơn của Var. Thước đo EaR đưa ra những thay đổi tiềm năng tiêu cực của thu nhập và khá dễ để đo lường. Tuy nhiên giữa Var và EaR có sự khác biệt lớn. EaR không liên hệ sự thay đổi tiêu cực trong thu nhập với những nhân tố rủi ro cơ sở, vì những thay đổi EaR xuất phát từ mọi nhân tố rủi ro. Ngược lại Var đòi hỏi liên hệ thua lỗ với các yếu tố rủi ro. Mặc dù Var là một thước đo tổng hợp, nó có thể được chia nhỏ tùy theo nguồn rủi ro.


Đọc thêm tại : http://timhieukienthucnganhang.blogspot.com/2015/06/vi-du-ve-xac-suat-vo-no.html


Từ khóa tìm kiếm nhiều:phương pháp định giá, thanh khoan

Nội dung và nhược điểm của Var

      Var có nhiều lợi ích khi so sánh với những thước đo rủi ro truyền thống. Nó gắn một giá trị tiền bạc vào rủi ro, mang tính tổng hợp và có thể thay thế cho rủi ro. Thay vì miêu tả rủi ro bằng nhiều chì số định lượng và định tính độ nhạy, xếp hạng, bảng theo dõi, giới hạn thừa…

     Var là một giá trị tiền tệ, khiến cho mọi thước đo rủi ro có thể thay cho nhau kể cả khi nguồn gốc của sự bất trắc là khác nhau. Hình 18.1 chi ra một số chỉ số của rủi ro dùng để đo lường và kiểm soát rủi ro. Những thước đo rủi ro thị trường cho mọt giao dịch là độ nhạy của giá trị của nó với những thay đổi trong thông số thị trường, được gọi là nhân tố rủi ro; độ biến động, đo lường độ lớn của những thay đổi trong giá trị hay của những nhân tố rủi ro (được gọi là các chữ cái Hy Lạp).

giá trị tiền tệ


     Đối với rủi ro tín dụng, xếp hạng tín dụng đưa ra một thứ hạng cho uy tín tín dụng của người đi vay, và quản lý rủi ro sử dụng danh mục theo dõi của những người đi vay có vẻ rủi ro hơn dự đoán, sự tập trung của danh mục đẩu tư vào những ngành công nghiệp hoặc vùng nhất đinh… Những chi số đó hoặc thước đo định lượng đó không thể thay thế cho nhau, và không thể chuyển đổi chúng thành thua lỗ tiềm tàng. Ngược lại, Var tổng hợp tất cả chúng và đại diện cho một giá trị tiền mặt.

     Vì Var mang tính tổng hợp, nó không thể thay thế cho những thước đo cụ thể như vậy, nhưng nó tổng kết chúng và đưa ra cái nhìn tổng quan.
Có nhiều dạng thua lỗ tiềm năng:
• Thua lỗ dự kiến EL
• Thua lỗ không đoán trước
• Thua lỗ ngoại lệ
Cả ba thước đo đều cẩn dùng phân phối thua lỗ. Var được định nghĩa là thua lỗ không đoán trước. Để minh họa khái niệm được sử dụng như thế nào, chúng ta sẽ sử dụng phân phối chuẩn.

     Nhược điểm của Var là hình phản chiếu lợi ích của nó. Tuy không xác định được nguồn gốc của rủi ro, nó chỉ ra danh mục đầu tư nhạy với những nhân tố nào. Bởi vì nó tổng hợp rủi ro, nó không thỏa đáng để quản lý mi ro, trừ cho mục đích tạo ra giới hạn với Var. Nhưng vì các mô hình Var không đảm bảo có thể tìm ra nguồn gốc rủi ro, nó không phù hợp với những mục đích khác ngoài giới hạn rủi ro tổng hợp.


Đọc thêm tại : http://timhieukienthucnganhang.blogspot.com/2015/06/tim-hieu-ve-phuong-phap-var.html


Phân phối thua lỗ

   Chúng ta sẽ xem xét phân phối thua lỗ và cách chúng được dùng để đo lường các loại Var. Phân phối thua lỗ cho rủi ro thị trường và cho rủi ro tín dụng khác nhau.

    Đối với rủi ro thị trường, thua lỗ là những thay đổi giá tiêu cực của công cụ và danh mục đẩu tư. Những thay đổi đó thưởng có dạng hình chuông với một xu hướng trung tâm.

     Khi đo lường thua lỗ tiềm năng, phân phối chuẩn là một phép xấp xỉ tiện lợi cho phân phôi lợi nhuận và thua lỗ. Nó tạo ra cơ sở cho Var delta-chuẩn được trình bày ở sau.

thua lỗ


    Đối với rủi ro tín dụng, phân phối thua lỗ bắt nguồn chủ yếu từ vỡ nợ. Những thua lỗ nhỏ là thưởng xuyên trong khi những thua lỗ lớn hiếm hơn. Điều này rất hiển nhiên khi xem xét một khoản nợ. Khoản nợ có phân phối thua lỗ với xác suất 98% cho thua lỗ bằng 0 và xác suất 2% cho thua lỗ toàn bộ. Đây là xác suất vỡ nợ của người đi vay. Khi tổng hợp các khoản nợ, thua lỗ có phân phối không đối xứng với hình dạng giống như hình 18.2. Có một đinh ở gần số 0, là xác suất 98% không có thua lỗ và thua lỗ toàn phần chi có xác suất 2% ở phía xa tay phải trên trục X thua lỗ.

    Phân phối thua lỗ có thể được quan sát đối với rủi ro thị trường và thua lỗ tín dụng trong những hoạt động tài chính bán lẻ. Quan sát lịch sử cho phép xác định liệu phân phối thua lỗ mồ phỏng có giống như thua lỗ thật hay không. Đối với danh mục đầu tư vỡ nợ thấp, ví dụ như danh mục đầu tư cho các doanh nghiệp lớn vay tiền, vỡ nợ là những sự kiện hiếm. Những vụ võ nợ không đủ nhiều để cho một số lượng quan sát lịch sử đáng kể, trừ trong dịch vụ tài chính bán lẻ. Danh mục đầu tư ít vỡ nợ luôn cần tới những mô hình để xác định phân phối thua lỗ.



Đọc thêm tại:


Friday, June 26, 2015

Trần phòng hộ bán cho khách hàng

     Hãy xem xét một tập hợp các khoản vay lãi suất thả nổi với trần lãi suất, lượng và lãi suất thực hiện của trần đều đã biết. Lượng tiền phụ thuộc vào trần với những lãi suất thực hiện khác nhau là các nguy cơ quyền chọn. Nó có thể dược chia nhỏ thành những khoảng giá trị thực hiện.

      Lợi ích một-thời-điểm cho khách hàng có thể được tính giả định thực hiện trần tức thời mang lại lợi ích cho người đi vay. Ở những thời điểm tương lai, lợi ích tùy vào các kịch bản lãi suất. Lợi ích cho khách hàng sẽ tăng khi lãi suất dự kiến tăng và ngược lại.

     Phòng hộ cho ngân hàng để đối phó là những trần đảm bảo lãi suất cho vay. Lợi ích từ việc thực hiện ngay cũng có thể được tính từ lượng và lãi suất thực hiện của danh mục đầu tư phòng hộ này. Nó tùy vào các kịch bản lãi suất của những ngày trong tương lai.

      Khe hở quyền chọn là khe hở giữa quyển chọn nắm giữ bởi khách hàng và quyền chọn ngân hàng có được. Khe hở dùng để theo dõi rủi ro quyền chọn. Chênh lệch giữa lượng vay bị giới hạn và mệnh giá của trần được gọi là “khe hở của trần” hay khe hở quyền chọn. Nó là chênh lệch giữa mệnh giá quyền chọn khách hàng nắm giữ và quyền chọn ngân hàng nắm giữ. Một khe hờ quyền chọn như vậy có thể được tách nhỏ thành những giá trị thực hiện, và với mỗi dải giá tri thực hiện, sẽ có một khe hở quyền chọn của trần. Trong biểu đồ “khe hở của trần” (hình 27.10), đường thẳng phía trên cho thấy trần được bán và đường phía dưới là trần ngân hàng mua. Sự chênh lệch là khe hở của trần. Kích cỡ của cả hai nguy cơ giảm cùng thời gian do khấu hao.

      Lợi ích thực bằng lợi nhuận từ trần trừ đi thua lỗ từ trần của khách hàng với những tình huống lãi suất khác nhau. Thua lỗ từ trần bán cho khách hàng là hiệu giữa lãi suất và lãi suất trần nhân với giá trị danh nghĩa ứng với mỗi khoảng giá trị thực hiện của trần, Lợi nhuận từ trần cũng là hiệu giữa lãi suất thực hiện và lãi suất nhân với khoản tiền được phòng hộ. Trong một giai đoạn nhất định, gộp doanh thu lãi được trao cho khách hàng và tiết kiệm lãi cho ngân hàng từ trần, ta tính ra tác động thực của cả hai. Lợi ích thực là lợi ích của khe hở quyền chọn, thường được coi là sự thay đổi của Nil do trần.  

lợi nhuận


     Các cột ở phía trên cho thấy doanh thu lãi bị mất và lợi ích lãi từ trần của ngân hàng. Giá trị thực là tác động lên NIL Những giá trị như vậy tùy vào lãi suất. Nguy cơ với rủi ro quyền chọn là “khe hở trần” cộng với khe hở giữa doanh thu lãi ngân hàng bị mất và thu nhập lãi ngân hàng có được từ trần dùng để phòng hộ là lợi ích thực của khe hở quyển chọn.

     Tác động lên Nn của khe hở trần cho thấy nhõng phòng hộ bổ sung có thể tiết kiệm được bao nhiêu nữa. Những phòng hộ mới đó sẽ tốn chi phí trần mới nhưng làm giảm lãi ngân hàng bị mất cho khách hàng. Mua những trần mới là hợp lý khi chúng có chi phí thấp hơn doanh thu lãi bị mất và chưa được phòng hộ.



Đọc thêm tại:


Phòng hộ quyền chọn ẩn tái thỏa thuận lãi suất cố định

    Với những khoản vay lãi suất cố định, việc thực hiện quyền chọn không có trên hợp đồng như với những lãi suất thả nổi bị giới hạn. Tuy nhiên, cũng có thể tính được lợi ích của quyền chọn tái thỏa thuận vay lãi suất cố định.

    Với một thời điếm, lợi ích kinh tế của thực hiện quyền chọn có thể được tính cho mỗi khoản vay lãi suất cố định. Lợi ích tăng lên cùng với hiệu giữa lãi suất cố định ban đẩu và lãi suất mới, và tăng cùng kỳ hạn còn lại. Lợi ích tức thì càng lớn thì khả năng tái thỏa thuận càng cao. Có thể chia nhỏ danh mục đẩu tư các khoản vay thành những phần ứng với những phạm vi giá trị của lợi nhuận kinh tế từ việc tái thỏa thuận cho người đi vay.

 lãi suất


     Điều này có thể thực hiện bằng cách nhóm các khoản vay tùy theo lãi suất cố định và kỳ hạn còn lại. Việc chi nhỏ đó giúp tính toán lượng tiền chịu rủi ro quyền chọn. Cũng giống như với trần, phân tích này là nguy cơ với rủi ro quyền chọn về phía khoản vay. Cách xử lý tương tự với những phòng hộ quyền chọn của ngân hàng cũng sẽ tính ra khe hở quyền chọn, được chia nhỏ thành nhũng dải giá thực hiện.

     Lợi ích thực của khe hở quyền chọn tùy vào lãi suất. Với một tình huống lãi suất, nó bằng thu nhập từ sàn trừ đi thua lỗ do tái thỏa thuận. Lợi ích từ việc phòng hộ cho ngân hàng là hiệu giữa lãi suất thực hiện của sàn và lãi suất, nhân với lượng được phòng hộ. Trong một khoảng thời gian nhất định, gộp doanh thu lãi ngân hàng mất cho khách hàng và tiết kiệm lãi cho ngân hàng do sàn tạo ra lợi ích thực. Lợi ích thực là lợi ích của khe hở quyền chọn, thường được coi là sự thay đổi Nil do quyền chọn. Biểu đồ cũng giống như với khe hở trần. Lợi ích thực cho phép quyết định những phòng hộ bổ sung có tạo thêm lợi ích cho ngân hang hay không.


Đọc thêm tại : http://timhieukienthucnganhang.blogspot.com/2015/06/tran-phong-ho-ban-cho-khach-hang.html


Từ khóa tìm kiếm nhiều:bao cao tai chinh ngan hang, thanh khoản

Rủi ro quyền chọn và khe hở quyền chọn

      Rủi ro quyền chọn gây ra giảm sút doanh thu lãi cho ngân hàng khi quyền chọn tái thỏa thuận lãi suất cố định hay trần trong khỏan vay lãi suất thả nổi được trao cho khách hàng. Đóng khe hở duration giới hạn độ nhạy EV.

    Tuy nhiên, khe hở độ lồi có thể vẫn mở. Cũng giống như khe hở quyền chọn, nó có thể được phòng hộ bằng quyển chọn.Phòng hộ cho những khỏan vay lãi suất thả nổi với trần bao gồm giới hạn chi phí cấp vốn thông qua việc mua trần. Phòng hộ chống lại việc tái thỏa thuận lãi suất cố định bao gồm mua sàn để bảo vệ doanh thu lãi khi lãi suất giảm.

duration


    “Khe hò quyền chọn” là khe hở giữa quyền chọn được trao cho khách hàng và quyền chọn được ngân hàng sử dụng để phòng hộ. Khe hở quyền chọn có thể được tính là hiệu giữa quyền chọn được bán đi và mệnh giá quyền chọn ngân hàng thu được. Hiệu đó cho biết độ lớn của những nguy cơ quyền chọn. Để đánh giá hiệu ứng giá trị, lơi ích của quyền chọn được mua hay bán quan trọng hơn.

    Lợi ích chính của khách hàng là lợi ích của khe hờ quyền chọn, tùy vào tình huống lãi suất.Chúng ta xem xét trường hợp khách hàng mua trần khi lãi suất tăng và trường hợp quyền chọn ẩn để tái thỏa thuận lãi suất cố định khi lãi suất giảm.


Đọc thêm tại : http://timhieukienthucnganhang.blogspot.com/2015/06/phong-ho-quyen-chon-tai-thoa-thuan-lai.html


Hệ thống “định giá chuyên khoản” FTP

     Ngoài quản lý bảng cân đối kế toán, đóng góp của ALM với quản lý rủi ro toàn ngân hàng còn bao gồm định nghĩa giá chuyển khoản kinh tế, chi phí nội bộ của vốn, thông qua hệ thống “định giá chuyên khoản” (FTP).

     Hệ thống FTP dùng chủ yếu để chuyển vốn từ những đơn vị dư tiền mặt sang những đơn vị thiếu tiền mặt thông qua một quỹ vốn là ngân quỹ hoặc ALM. FTP cũng là một hệ thông phân bố thu nhập, chia nhỏ tổng thu nhập của danh mục đầu tư ngân hàng thành thu nhập phân bố cho từng nghiệp vụ.Hệ thống FTP khá đơn giản và thường ít được nói đến trong các tài liệu, mặc dù nó rất quan trọng.

chuyên khoản


      Hệ thống FTP dùng để phân bổ thu nhập và định giá dựa trên rủi ro. Hai công cụ chính trị để quản lý rủi ro toàn ngân hàng là hệ thống FTP và hệ thông phân phối vốn. Hệ thông phân phối vốn có mục tiêu phân phối rủi ro trong ngân hàng và sẽ được nói tới trong mục 13. Hệ thống FTP là một phần quan trọng của quản lý rủi ro. Không có nó, phân bố thu nhập cho các giao dịch và tiểu danh mục đầu tư sẽ là điều không thể. Điều đó khiến cho phân phối vốn và thước đo hoạt động điều chỉnh theo rủi ro hoàn toàn vô nghĩa trong việc quản lý ngân hàng.

      Vì các hệ thống FTP dùng để phân bố hoạt động, giá chuyển khoản là quan trọng nhất. Nếu tính khả tín của nó bị đe dọa, những sai sót sẽ làm hỏng tất cả những phép đo hoạt động trong ngân hàng thương mại. Những tiêu chuẩn không kinh tế của giá chuyển khoản sẽ dẫn tới ac-bít không phù hợp của những đơn vị kinh doanh và khách hàng. Vì “giá chuyển khoản kinh tế” quan trọng như vậy, chúng phải mang tính khách quan và dựa trên những tiêu chí hợp lý.


Đọc thêm tại : http://timhieukienthucnganhang.blogspot.com/2015/06/rui-ro-quyen-chon-va-khe-ho-quyen-chon.html


Từ khóa tìm kiếm nhiều:dòng tiền, tính thanh khoản

Mục đích và tổ chức cơ bản của định giá chuyển khoản

    Mục này gồm hai chương. Mục đích và tổ chức cơ bản của định giá chuyển khoản được giới thiệu ở chương 28:
1. phân phối vốn trong ngân hàng
2. tính toán biên hoạt động của một giao dịch hay một tiểu danh mục đầu tư của những giao dịch và đóng góp của nó tới biên tổng của ngân hàng (phân phối doanh thu)
3. tạo ra động lực hoặc hình phạt, phân tách các giá chuyển khoản cho phép sử dụng chúng một cách nhất quán với chính sách thương mại.

     Những đóng góp khác liên quan tới kinh tế học của giá chuyển khoản được trình bày ở chương 29:
1. Xác lập những tiêu chuẩn kinh tế vì mục đích định giá và đo lường hoạt động. Điểu này đòi hỏi phải lựa chọn những tham chiếu phù hợp cho giá chuyển khoản kinh tế.

     Chi phí “bao gồm tất cả” của vốn chính là tham chiếu này.
2. Xác lập các chính sách định giá. Định giá dựa trên rủi ro sẽ bù đắp cho những rủi ro của ngân hàng để hợp với mục tiêu lợi nhuận chung của ngân hàng.
3. Đưa ra những báo cáo định giá sai, làm rõ sự khác biệt giữa giá thực và giá mục tiêu dựa trên rủi ro.
4. Chuyển tính thanh khoản và rủi ro lãi suất cho đơn vị ALM, khiến cho hoạt động của các nghiệp vụ kinh doanh độc lập với những biên động thị trường vượt qua tầm kiểm soát của chúng.

chuyển khoản


    Cả hai danh sách cho thấy hệ thống FTP là một công cụ chiên lược và là một giao diện chính giữa bộ phận thương mại và tài chính của ngân hàng. Những sai sót hay thiêu nhất quán trong hệ thống sẽ ảnh hưởng tới quản lý thương mại và tài chính, tạo ra một khe hở trong chính sách và quản lý hoạt động, làm suy yếu quản lý rủi ro toàn ngân hàng.

    Chương 28 sẽ .chỉ rõ hệ thống nên được thiết kế ra sao, nguồn vốn nào nên được chuyển và làm thế nào để đảm bảo hoạt động của tất cả các đơn vị kinh doanh cộng lại bằng thu nhập của ngân hàng. Chương 29 thảo luận định nghĩa của giá chuyển khoản kinh tế công bằng.


Đọc thêm tại : http://timhieukienthucnganhang.blogspot.com/2015/06/he-thong-inh-gia-chuyen-khoan-ftp.html


Từ khóa tìm kiếm nhiều:dong tien, thanh khoản

Thursday, June 25, 2015

Độ nhạy của giá trị kinh tế và khe hở duration

    Vì giá trị kinh tế là hiệu giữa giá trị tài sản và nợ, độ nhạy của nó phụ thuộc vào duration của chúng, được gọi là khe hở duration. Khe hờ duration tương đương với khe hở lãi suất để kiểm soát thay đổi thu nhập lãi thực.

      Khe hở duration
    Để trung hòa độ nhạy của giá trị kinh tế sự thay đổi trong giá trị tài sản và nợ phải giống nhau. Điều kiện này đòi hỏi một mối quan hệ giữa giá trị và duration của tài sản và nợ. Khi biểu đổ lợi nhuận dịch chuyển song song Ai, điều kiện. VA và VỊ là giá trị thị trường của tài sản và nợ. Những thay đổi trong các giá trị này xuất phát từ duration của chúng DA và DL . Sự thay đổi trong giá trị thị trường của tài sản và nợ.

     Công thức trên trở thành.Điều kiện này có nghĩa là thay đổi trong giá trị thị trường của tài sản và nợ phải bằng nhau. Chú ý khe hở duration này tính theo giá trị, không tính theo năm. Khi điều chinh duration, thay đổi duration theo năm không có trọng số giá trị đơn giản hơn. Điều kiện miễn dịch. Công thức cuối cùng yêu cầu tỷ lệ giữa duration của tài sản nợ phải băng tỷ lệ giá trị thị trường của nợ với tài sản.

duration


     Độ nhạy EV là độ nhạy của danh mục đầu tư của tài sản trừ đi nợ. Duration của nó là một hàm tuyến tính của tài sản và nợ, sử dụng trọng số giá trị thị trường.Độ nhạy của EV có duration bằng tử số. Đó chính là khe hở duration. Nó là khe hở của duration của tài sản và nợ với trọng số là giá trị thị trường của tài sản và nợ.


       Khe hở duration = – DAVA + D, VỊ
Một cách gọi khác của duration của EV là “duration của cổ phần”. Điều này có nghĩa là chia khe hở duration tính bằng giá trị cho E V. Công thức biểu hiện duration của EV bằng năm thay vì bằng giá trị.Độ nhạy của EV cao hơn nhiều so với độ nhạy của tài sản và nợ vì ta chia cho EV, thấp hơn nhiều giá trị tài sản và giá trị nợ.

      Ví dụ, sử dụng những giá trị sổ sách, ta xấp xi VL – 96% X VA khi cổ phần bằng 4% tài j sản. EV cũng đại diện cho khoảng 4% bảng cân đối kế toán. Nêu ta có DA=2 và Dt = 1,khe hở duration gia uyển là:
      Những điều kiện này hết sức đơn giản. Chú ý khe hở duration được gia trọng bởi giá trị thị trường. Khi duration của tài sản và nợ bằng nhau (đồng nghĩa với khe hở duration không gia trọng), bất kể sự thay đổi lãi suất nào cũng tạo ra thay đổi phần trăm giống nhau cho tài sản và nợ. Do đó, không có sự thay đổi trong tỷ lệ nợ so với tài sản Nếu tỷ lệ nợ với tài sản là cố định, tỷ lệ nợ với cổ phần của ngân hàng cũng cố định. Do đó, duration giống nhau có nghĩa là đòn bẩy giá trị thị trường miễn dịch với những thay đổi lãi suất.

      Thông thường, một quỹ phải tuân thủ với quy định giá trị tài sản cao hơn giá trị nợ. Duy trì tỷ lệ tài sản và nợ cao hơn 1 có nghĩa là duration của tài sản và nợ được đảm bảo nhờ những tài sản đó có duration bằng nhau.


Đọc thêm tại : http://timhieukienthucnganhang.blogspot.com/2015/06/cac-tinh-chat-cua-o-loi.html


Từ khóa tìm kiếm nhiều:dong tien, thanh khoản

Kiểm soát duration với phái sinh

    Điều chinh duration đòi hỏi thay đổi họng số của duration của những khoản khác nhau trong bảng cân đối kế toán. Đáng tiếc, khách hàng tự quyết định họ muốn gì, điều đó tạo ra giá trị duration. Do đó, thay đổi duration của tài sản và nợ trên bảng cân đối kế toán không phải là cách làm phù hợp để điều chỉnh duration của danh mục đầu tư.

    Một cách làm khác là sử dụng phái sinh. Các cách phòng hộ như hoán đổi lãi suất thay đổi duration vì chúng thay đổi dòng tiền lãi. Khi biên một tài sản lãi suất cố định thành lãi suất thả nối bằng một hợp đồng hoán đổi,giá trị không còn nhạy với lãi suất, với duration bằng 0 và giá trị cố định.

    Những hợp đồng tương lai có duration bằng với tài sản cơ sở vì chúng theo dõi giá trị của tài sản. Chúng ta đã thảo luận hợp đồng giao sau, không được trao đổi trong những giao dịch có tổ chức. Vì hợp đồng giao sau về lãi suất cố định một lãi suất giao sau, ví dụ cho một khoản vay giao sau, giá trị thị trường của khoản vay giao sau nhạy với những thay đổi lãi suất. Điều này có nghĩa là tăng độ nhạy. Do đó, hợp đồng giao sau và hợp đồng tương lai đưa ra một cách làm linh hoạt để điều chỉnh duration thông qua những giao dịch ngoài bảng thay vì những điều chỉnh trên bảng.

 duration


       Khe hở duration và độ nhạy của EV
     Hổ sơ giá trị-lãi của EV có nhiều hình dạng tùy vào duration tương đối của tài sản và nợ. Khe hở duration đo lường độ nhạy đó. Khi khe hở bằng 0, EV không bị ảnh hưởng bởi những thay đối lãi suất: không quá lớn. Một chênh lệch duration – gia trọng bởi giá trị tài sản và nợ – khiến cho EV nhạy với lãi suất. Sự thay đổi của EV tỷ lệ với thay đổi trong lãi suất vì giá trị của tài sàn và nợ xấp xỉ là những hàm tuyên tính của thay đổi lãi suất. Hình 27.2 cho thấy độ nhạy của của EV khi có chênh lệch duration. Có một giá trị của lãi suất khiến cho EV bằng 0. Nếu lãi suất thay đổi, EV thành số âm hoặc số dương.

     Rủi ro lệch hạn tức là lệch duration, do đó tạo ra khe hở duration. Bằng cách thay đổi và trung hòa khe hờ duration, ta có thể làm cho tình huống thuận lợi hon. Trong hình 27.3, độ lồi của các biểu đổ không quan trọng lắm, và duration của tài sản và nọ giống nhau. Những thay đối nhỏ trong lãi suất không ảnh hưởng nhiều tới EV. Khớp duration gia trọng của tài sản và nọ khiến cho EV miễn dịch với những thay đổi lãi suất nhỏ. Đây gọi là quy tắc “cục bộ”.

     Độ nhạy của tài sản và nợ,và EV phụ thuộc vào lãi suất. Với những thay đổi lớn trong lãi suất, EV trở nên nhạy vì những độ lồi khác nhau của tài sản và nợ. Trong hình 27.3, hai hổ sơ của tài sản và nợ có hình dạng thông thường với độ lồi hướng lên trên. Trong hình 27.3, EV là số dương và độ dốc của đổ thị giống nhau vì duration của chúng bằng nhau. EV gần như không nhạy với những thay đổi lãi suất, trừ khi lãi suất thay đổi đáng kể.



Đọc thêm tại:


Popular Posts