domain, domain name, premium domain name for sales

Monday, April 20, 2015

Tính thanh khoản là gì? quản lý thanh khoản

       Tính thanh khoản là gì là thuật ngữ kinh doanh để mô tả khả năng có thể nhanh chóng mua hoặc bán hàng hóa nào đó trên thị trường mà không bị ảnh hưởng bởi yếu tố giá cả.

        Rủi ro thanh khoản tồn tại khi có thâm hụt. Quản lý đòi hỏi phân bố khoản vốn cần thiết trong khoảng thời gian, và tránh những nhu cầu huy động vốn quan trọng không đoán trước. Thường thì, những giới hạn được đặt ra cho khe hở thanh khoản để đảm bảo huy động vốn vẫn nằm trong giới hạn chấp nhận được.


Tính thanh khoản là gì? quản lý thanh khoản

Tính thanh khoản là gì? quản lý thanh khoản



      Quản lý tính thanh khoản hướng tới một khe hở mục tiêu sau khi đã huy động thêm vốn, để tuân theo những giới hạn khe hở thanh khoản. Những giới hạn đó tùy vào lượng vốn có thể huy động định kỳ không gây ra vấn đề.




      Tính thanh khoản tối thiểu phải huy động là khoản sẽ xóa bỏ khe hở vào thời điểm i+1 và tất cả những thời điểm tương lai cho tới hết khoảng thời gian quản lý. Quản lý chủ động của ngân quỹ thường từ 1 tới 2 năm. Ngoài khoảng thơi gian đó, ngân hàng nên theo dõi khe hở để đảm bảo khe hở không vượt cao quá giới hạn.


       Ở đây, ta chỉ tập trung vào ngắn hạn. Tiền mặt huy động hôm nay để bù cho khe hở hiện tại có thể được huy động bằng nhiều cách, tùy vào cấu trúc kỳ hạn của nợ. Quyết định cấp vốn sẽ làm thay đổi hoàn toàn khấu hao nợ.


       Dưới đây là hai ví dụ hồ sơ tài sản và nợ với thâm hụt ban đầu. Trong cả hai trường hợp, nguồn tiền mặt sụt giá nhanh hơn tài sản và thâm hụt được duy trì trong một khoảng thời gian ngắn.


       Chúng ta giả định là ALM muốn tăng nguồn tiền mặt bằng với tài sản bởi vì kỳ vọng về lãi suất đã thay đổi hoặc để giảm những yêu cầu tính thanh khoản trong tương lai. Vấn đề là phải xác định cấu trúc của những nợ mới thống nhất với mục tiêu mới. Nguồn tiền mặt mục tiêu nên bằng tài sản.


      Quá trình bắt đầu từ điểm cuối khoảng thời gian và đòi hỏi việc đi ngược lại để tìm ra cần những khoản nợ nào. Người thủ quỹ sau đó “xếp lớp các khoản nợ bắt đầu từ ngày cuối cùng để tăng nợ tới khi bằng tài sản”.

Vay, cho vay và cấu trúc kỳ hạn của lãi suất

     Có thể giới thiệu rủi ro lãi suất dễ dàng hơn bằng cách bắt đầu với biểu đồ lợi nhuận, thưởng có hướng đi lên. Những vấn đề cơ bản của người vay/cho vay đã xác định được một khung thời gian là:


- Với người cho vay: cho vay dài hay ngắn hạn? có gia hạn khoản nợ?


- Với người đi vay: đi vay dài hay ngắn hạn? có gia hạn khoản nợ?


     Khi người đi vay/cho vay dùng những ngày đáo hạn khác với khung thời gian thực cho việc vay mượn, họ gặp rủi ro lệch hạn. Ví dụ, người cho vay hai năm đi vay 1 năm và gia hạn việc cho mượn ngắn hạn này cho tới khi hết khung thời gian 2 năm sẽ gặp rủi ro lãi suấtcó thể giảm trong năm thứ hai.


Vay, cho vay và cấu trúc kỳ hạn của lãi suất



     Với những ngân hàng cho vay và đi vay, duy trì lệch kỳ hạn (đi vay ngắn hạn và cho vay dài hạn) cho phép lợi dụng chênh lệch giữa lãi suất dài và ngắn hạn. Tuy nhiên, lệchhạn có thể tiềm tàng rủi ro lãi suất và rủi ro tính thanh khoản. Đây là tình trạng khá phổ biến của một ngân hàng thương mại. Kỳ hạn nợ ngắn bắt nguồn từ những người ký gửi, thưởng có kỳ hạn hợp đồng ngắn nhưng kỳ hạn thật sự dài hơn. Nó cũng có thể bắt nguồn từ nợ tài chính ngắn hạn. Đây gọi là “vị thế cấu trúc” của ngân hàng thương mại


     Vị thế này hợp lý về mặt kinh tế miễn là lãi suất ngắn hạn thấp hơn lãi suất dài hạn. Vị thế này cũng mạo hiểm vì lãi suất ngắn hạn có thể vượt lãi suất dài hạn, hoặc cao hơn lãi suất cho vay lịch sử của ngân hàng. Trong cả hai trường hợp, chênh lệch trở thành số âm. Trường hợp đầu tiên có thể xảy ra nếu biểu đồ lãi suấtcho vay lịch sử có thể thấp hơn lãi suất ngắn hạn hiện thời. Khi lãi suất dài hạn cao hơn lãi suất ngắn hạn, biểu đổ bị đảo ngược. Đi vay ngắn hạn và cho vay dài hạn tạo ra một chênh lệch âm. Cho vay ngắn hạn và đi vay đài hạn sẽ tạo ra chênh lệch dương.


     Những điều này xuất hiện trong sự sụp đổ của ngành công nghiệp ngân hàng vào thập kỷ 1970. Chính sách tiền tệ trở nên gắt gao hơn để chống lại nạn lạm phát hai chữ số. Lãi suất ngắn hạn tăng lên cao hơn 15% và lãi suất cho vay thấp hơn. Điều này gây ra sự thua lỗ làm suy giảm khả năng thanh toán của rất nhiều tổ chức tiết kiệm và cho vay.


     Lệch hạn giữa tài sản và nợ tiềm tàng một rủi ro tính thanh khoản khi các khoản nợ có kỳ hạn ngắn hơn tài sản. Những rủi ro tính thanh khoản đó trở thành sự thật với nhũng hậu quả kinh hoàng với hệ thống tài chính trong cuộc khủng hoảng 2007-2008, khi thị trường thanh khoản ngắn hạn cạn kiệt đột ngột. Cả thị trường tài chính ngắn hạn và vay mượn giữa các ngân hàng bị đóng băng, khiến cho các ngân hàng suy giảm tính thanh khoản phải mượn những khoản tiền khổng lồ từ ngân hàng trung ương và không dám mở rộng tín dụng vì sợ mất tính thanh khoản.




Từ khóa tìm kiếm nhiều: rủi ro tài chính, khủng hoảng tài chính

Định giá và rủi ro, lợi nhuận của hợp đồng quyền chọn

Rủi ro và lợi nhuận của hợp đng quyn chọn


     Chúng ta tiếp tục với ví dụ người mua quyển chọn nói trên. Nhà đầu tư đầu tư vào quyền chọn mua. Nếu quyền chọn “không có lời” thì lợi ích bằng 0. Nhà đầu tư mất khoản đầu tư với chi phí 5. Khi quyền chọn có lời, người nắm giữ quyền chọn thực hiện lựa chọn: mua với giá 100 và bán với giá 120, tạo ra lợi ích tổng 20 và lợi ích ròng 15. Lợi nhuận là 15/5<300%.


     Thua lỗ cũng có thể là 100% lượng tiền đầu tư nếu vào ngày đáo hạn quyền chọn “không có lời”. Thu nhập cao hơn nhiều so với thu nhập cổ phiếu. Trong trường hợp thu nhập cổ phiếu là 20%, thu nhập quyền chọn mua là 300%. Do đó, quyền chọn được gọi là những công cụ “đòn bẩy”: chúng “đòn bẩy” thu nhập đối với tài sản cơ sở, nhưng cái giá phải trả là có thể thua lỗ 100%. Nắm giữ cố phiếu có thể tạo ra thu nhập thấp hơn, chỉ 20% nhưng nguy cơ mất hoàn toàn giá trị cổ phiếu là Tấtnhờ.


     Chúng ta tóm tắt so sánh đầu tư vào cổ phiếu số tiền 100 và đầu tư lượng tiền đó vào quyền chọn mua, với những số liệu như trên. Bởi vì chi phí của quyền chọn là 5, nhà đầu tư sẽ mua 20 quyền chọn, mỗi cái tạo ra quyền lợi mua một cổ phiếu với giá 100, trong khi số tiền 100 cho phép đầu tư vào 1 cổ phiếu duy nhất.




Định giá và rủi ro, lợi nhuận của hợp đồng quyền chọn




Định giá quyền chọn Giá trị quyền chọn phụ thuộc vào


- Giá thực hiện K


- Giá giao ngay của tài sản cơ sở So


- Sự bất ổn giá của tài sản này, đo bởi tính hay thay đổi


- Ngày đáo hạn T


- Lãi suất không rủi ro r


     Định giá quyền chọn phụ thuộc vào mô hình định giá. Một mô hình nổi tiếng là Black- Scholes với những công thức định giá cho một quyền chọn mua c và quyền chọn bán.


     Với công thức định giá, chúng ta có thể minh họa giá của các quyển chọn thông qua một ví dụ. Làm thế nào để đảm bảo là lợi nhuận cổ phiếu sẽ vượt qua đầu tư không rủi ro của trái phiếu trong thời gian 10 năm? Chi phí là bao nhiêu? Chúng ta sử dụng lãi suất không rủi ro là 4% và tính hay thay đổi 15% hàng năm.


     Đảm bảo này tương đương với một quyền chọn bán cho phép bán danh mục đầu tư cổ phiếu với giá trị hiện tại là 1000 với giá * 1000 (1+4%)10 * 1480 sau 10 năm. Điều này tương đương với một quyền chọn bán cổ phiếu, thời gian đáo hạn 10 năm với giá thực hiện là 1480. Giá trị lý thuyết của một quyền chọn bán ứng với những đặc điểm đó là 170, nghĩa là 17% tổng giá trị đầu tư. Chú ý tuy nhiên, quyền chọn bán có giá thấp hơn vì chúng có thời gian đáo hạn ngắn hơn, ví dụ như một năm.


Tài sản cơ sở của quyền chọn


     Hợp đồng giao sau và hợp đồng quyền chọn có thể áp dụng với:


- Hàng hóa


- Những tài sản có lãi suất như trái phiêu hoặc tín phiếu


- Tỷ giá hối đoái


     Đối với quyền chọn, chúng ta đã sử dụng phương pháp cổ điển, coi chúng như những công cụ có hướng, nghĩa là đánh cược vào một xu hướng. Quyền chọn cũng được coi là những công cụ có độ biến động, vì chúng đánh cược vào sự bất ổn của những tài sản cơ sở. Theo những công thức định giá, giá của quyền chọn tăng lên với độ biến động. Không có gì khó hiểu là độ biến động càng cao thì khả năng một quyền chọn có lãi trước ngày đáo hạn càng cao. Những người giao dịch coi chúng như những công cụ độ biên động- Họ đánh cược liệu tính bất ổn đó được đánh giá quá cao hay quá thấp trong những quyền chọn. Ví dụ, độ biến động của thị trưởng thường thấp hơn vào cuối năm, trong đợt nghỉ lễ. Những trương hợp đó là quyền chọn định giá độ biến động quá cao. Do đó sẽ hợp lý khi bán quyền chọn và mua lại chúng khi giá giảm khi độ biên động giảm. Dĩ nhiên, đây là một loại hình giao dịch phán đoán




Từ khóa tìm kiếm nhiều: rủi ro tài chính, rủi ro tín dụng

Lợi ích và người bán hợp đồng quyền chọn

Lợi ích hợp đổng quyền chọn

     Biểu đổ lợi ích của hợp đổng quyền chọn biểu diễn tổng doanh thu và doanh thu ròng từ những giao dịch mua bán trong tương lai tùy thuộc vào giá cổ phiếu cơ sở. Quyền chọn bán được gọi là có lời (“in-the-money”) khi tạo ra tổng lợi ích dương, hoặc không có lời (“out-of-the-money”) nêu tổng lợi ích bằng không, và hòa vốn (“at- the-money”) nếu giá thực hiện đúng bằng với giá cổ phiếu hiện tại.

     Quyền chọn mua được gọi là có lời nếu tổng lợi ích là số dương, không có lời nêu tổng lợi ích là không, và hòa vốn nếu giá thực hiện đúng bằng với giá cổ phiếu hiện tại. Lợi ích ròng thấp hơn tổng lợi ích một khoản bằng phí bảo hiểm.


Lợi ích và người bán hợp đồng quyền chọn



Người bán hợp đồng quyền chọn

     Người bán hợp đồng quyền chọn, không giống như người mua hợp đồng quyền chọncó nghĩa vụ giữ cam kết với người mua. Người bán quyền chọn mua đối với cổ phiếu sẽ có nghĩa vụ bán cổ phiếu với giá thực hiện nếu người mua thực hiện hợp đồng. Người bán quyền chọn bán đối với cổ phiếu có nghĩa vụ mua cổ phiếu đó với giá thực hiện nếu người mua thực hiện hợp đồng.

     Người bán, hay người viết quyền chọn mua, có nghĩa vụ phải trả khoản chênh lệch giữa giá cổ phiếu và giá thực hiện khi quyền chọn mua có lời, có thể là một khoản lớn. Khoản lợi ích là hình ảnh phản chiếu của tiền lãi của người mua:

     Lợi ích với người bán quyền chọn mua =  maximum (giá cổ phiếu – giá thực hiện = 0)

     Người bán hay ngườiviếtcủa quyền chọn bán có nghĩa vụ trả cho người mua khoản tiền chênh lệch giữa giá thực hiện và giá cổ phiếu, nêu quyền chọn bán có lời, có khả năng cao tương đương với giá thực hiện. Lợi ích là hình ảnh phản chiếu của tiền lời của người mua:

     Lợi ích với người bán quyền chọn bán = – maximum (giá thực hiện – giá cổ phiếu)

     Người bán hợp đồng quyền chọn là các ngân hàng. Họ thu được phí bảo hiểm nhưng họ cũng phải bảo vệ mình khỏi những khoản thua lỗ nếu như người mua có lời. Để làm điều đó, họ dùng một kỹ thuật gọi là phòng ngừa rủi ro-delta. Delta của một quyền chọn là sự thay đổi giá trị của quyền chọn khi giá tài sản cơ sở thay đổi.

     Delta thay đổi khi giá của tài sản cơ sở thay đổi. Điều này xuất phát từ vết “gẫy” trong lợi ích. Giá trị quyền chọn luôn cao hơn khoản lợi ích bởi vì bất kỳ lúc nào trước ngày đáo hạn, vẫn có khả năng là quyền chọn sẽ có lời. Do đó, giá của quyền chọn là một đường cong giống như đối với quyền chọn mua. Chênh lệch giữa giá và giá thực hiện được gọi là giá trị thời gian của quyền chọn. Delta là độ dốc của đường cong, nằm giữa số 0 (không có lời) và 1 khi quyền chọn mua rất có lời. Nó thay đổi vì đường cong có độ lồi. Do có độ lồi, quyền chọn được gọi là công cụ phi tuyến tính.

     Nguyên tắc cơ sở của phòng hộ delta khá đơn giản. Người bán quyền chọn mua mất tiền khi quyền chọn có lời. Nếu quyền chọn có delta bằng 0.8 sự giá cổ phiếu thay đổi 1 sẽ dẫn tới giá quyền chọn thay đổi 0,8. Nếu giá cổ phiêu tiếp tục tăng thì giá trị quyền chọn mua cũng tăng và nó tạo ra sự thua lỗ cho người bán quyền chọn. Người bản có thể đền bù cho mất mát này bằng cách sử dụng thế trưởng vị đối với cổ phiếu. Giả sử giá cổ phiếu là s=120 và giá thực hiện là 100, delta là 0,9 và một quyền chọn cho quyền mua một cổ phiếu duy nhất. Bán quyền chọn mua và giữ cổ phiếu sẽ khiến cho thay đổigiá tri danh mục đẩu tư bằng không. Chú ý là phòng hộ delta rất linh động vì delta thay đổi khi tài sản cơ sở thay đổi. Đây là ứng dụng quy tắc sao chép: người giao dịch sao chép trưởng vị đối vài quyền chọn mua bằng cách kết hợp quyền chọn mua vớimột trưởng vị.



Từ khóa tìm kiếm nhiều: khủng hoảng tài chính, rủi ro tín dụng

Hợp đồng quyền chọn cho phép phòng ngừa rủi ro

     Hợp đổng quyền chọn thường được coi như những công cụ định hướng, cho phép phòng ngừa rủi ro trong một xu hướng nhất định. Ví dụ, một nhà đầu tư vào cổ phiếu lo ngại tỷ giá cổ phần sẽ giảm. Nhà đầu tư mua một quyền chọn bán đối với cổ phiếu từ một người bán, ví dụ như ngân hàng, nhà đầu tư có được sự bảo vệ hay bảo hiểm trong trường hợp giá cổ phiếu giảm.

     Người mua quyền chọn bán có quyền bán cổ phiếu ở một giá định trước, giá thực hiện, nếu giá cổ phiếu tụt xuống thấp hơn giá tối thiểu được đảm bảo. Nếu giá cổ phiếu vẫn cao hơn giá tối thiểu được đảm bảo, người mua đã trả chi phí bào hiểm. Người bán quyền chọn bán (một ngân hàng) có nghĩa vụ trả sự chênh lệch giữa giá thực hiện và giá giao ngay khi đáo hạn nêu giá giao ngay thấp hơn giá thực hiện.


Hợp đồng quyền chọn cho phép phòng ngừa rủi ro



     Đây là một ví dụ về quyền chọn bán đối với cổ phiêu:


  • Cổ phiếu X: giá trị hiện tại = 100

  • Giá thực hiện của hợp đồng quyền chọn = 100

  • Hạn thanh toán: 1 năm

  • Phí quyền chọn: 5

     Một quyền chọn bán cho phép hưởng lợi từ cả hai tình huống. Nếu giá cổ phiếu tăng, người mua quyền chọn bán được hưởng lợi khi cổ phiếu có triển vọng tăng trong khi vẫn được bảo vệ nếu có triển vọng giảm.

     Khi giá cổ phiếu giảm, quyền chọn bán trả khoản chênh lệch giữa giá thực hiện và giá cổ phiếu, đây là con số dương. Người mua quyền chọn bán có lợi. Khi giá cổ phiếu tăng, thiệt hại chi là phí hợp đồng (trong trường hợp này là 5). Ví dụ, nếu giá cổ phiếu giảm xuống 80, người mua quyền chọn bán bán với giá 100, lãi 20. Tuy nhiên, lợi ích này là tổng doanh thu. Lợi nhuận ròng, bỏ qua chiết khấu, phải trừ phí 5, còn lại 15. Quyển chọn bán cung cấp bảo hiểm trong trường hợp giảm giá, và tốn phí hợp đồng bảo hiểm.

     Quyển chọn mua có đặc điểm đối xứng. Người mua mua quyền lợi mua một giá cố địnhbằng giá thực hiện. Nêu giá cổ phiếu tăng lên 120, lợi nhuận là 120-100=20. Lợi nhuận ròng là 20-5=15. Nếu giá cổ phiếu giảm xuống 105, hợp đồng quyền chọn là vô giá trị vì thu nhập từ việc bán cổ phiếu với giá 105 đúng bằng với phí hợp đồng. Nếu giá cổ phiếu giảm xuống thấp hơn 105, người mua quyền chọn mua sẽ bị thua lỗ.




Từ khóa tìm kiếm nhiều: các loại rủ ro, khủng hoảng tài chính 2008

So sánh hợp đồng giao sau và hợp đồng quyền chọn

     Những nhà đầu tư dựa vào giá giao sau để vào ngày hôm nay khóa một giá trong tương lai. Hợp đồng giao sau là nghĩa vụ: ký hợp đồng một giá ngày hôm nay cho một điểm trong tương lai bất kể điểu gì xảy ra ngày mai có thể mang lại những kết quả cực hoặc tích cực cho người phòng ngừa rủi ro.

     Hợp đồng quyển chọn là một hợp đổng cho phép người mua có thể mua hoặc bán một tài sản với một giá định ra hôm nay, trong một phạm vi nhất định. Người bán có đoản vị với hợp đồng quyền chọn. Nhà đầu tư dùng hợp đổng quyền chọn để đầu tư hoặc để bảo vệ khởi việc giảm giá. Hợp đồng quyền chọn cung cấp quyền lợi, thay vì nghĩa vụ, phải bán hay mua một giá định sẵn hôm nay được gọi là giá thực hiện. Quyển chọn mua là quyền mua một tài sản với giá thực hiện, cho phép nhà đầu tư có lãi khi giá tài sảntăngtrong khi mất đi chi phí của quyền chọn nêu giá cổ phiếu dưới mức giá thực hiện. Quyền chọn bán là quyền bán một tài sản ở giá định trước, bảo vệ các nhà đầu tư trong trường hợp giá giảm dưới giá thực hiện.


So sánh hợp đồng giao sau và hợp đồng quyền chọn



Hợp đồng quyền chọn

     Hợp đồng quyền chọn là quyền lợi, không phải là nghĩa vụ như hợp đồng giao sau, để mua hoặc bán một tài sản cơ sở ở một giá định trước. Quyền chọn mua là quyền lợi mua và quyền chọn bán là quyền lợi bán tài sản cơ sở. Giá tài sản có thể được mua hoặc bán được gọi là giá thực hiện. Hợp đồng quyền chọn có hạn thanh toán. Một số hợp đồng quyền chọn có thể được thực hiện (người nắm giữ hợp đồng quyền chọn sử dụng quyềnlợi) chỉ vào hạn thanh toán, và một số khác có thể được thực hiện vào bất kỳ thời điểm nào trước hạn thanh toán. Có các loại hợp đồng quyền chọn đối với nhiều tài sản cơ sởhoặc thông số thị trường khác nhau: cổ phiếu, lãi suất, tỷ giá hối đoái… Loại hợp đồng quyền chọn đầu tiên là của châu Âu và loại thứ hai là của Mỹ. Chi phí của hợp đồng quyền chọn được gọi là tiền phí được trả bởi người mua hợp đồng quyền chọn, thường là trả trực tiếp khi làm hợp đồng.




Từ khóa tìm kiếm nhiều: các loại rủ ro, rủi ro lãi suất

Cách phòng ngừa rủi ro và lợi ích của hợp đồng giao sau

Ngừa rủi ro và đu cơ với hợp đồng giao sau

     Chiến lược phòng ngừa rủi ro có thể áp dụng với một người sử hữu cổ phiếu. Người sở hữu e ngại giá cổ phiếu giảm. Họ có thể phòng ngừa rủi ro đó bằng cách bán không một hợp đồng giao sau. Làm điều đó có nghĩa là họ có nghĩa vụ phải bán cổ phiếu ở giá giao sau vào ngày định trước. Miễn là giá cố phiếu giảm xuống dưới 110 thì việc phòng ngừa rủi ro đã thành công. Dĩ nhiên, nếu giá tăng cao hơn giá giao sau, ví dụ 120, người sở hữu cổ phiếu sẽ phải bán với giá 110 thay vì 120 và mất đi 120-110, tức là sự chênh lệnh dương giữa giá giao ngay trong tương lai (ẩn sổ) và giá trả sau.


Cách phòng ngừa rủi ro và lợi ích của hợp đồng giao sau



     Hợp đồng giao sau như vậy cũng có thể dùng để đánh cược là giá giao ngay trong tương lai sẽ cao hơn giá giao sau (vẫn là dương). Hãy xem xét một người không sởhữu chứng khoán ngày hôm nay. Một nhà đầu cơ sẵn sàng đánh cược giá giao ngay trong tương lai sẽ thấp hơn giá giao sau trong hợp đồng giao sau, ví dụ 80. Nhà đầu cơ sẽ mua cổ phiếu với giá 80 và bán với giá 110, hưởng lãi 30. Người bán kỳ hạn sẽ phải bán tài sản ngày mai, bất kế giá là bao nhiêu, bởi vì anh ta đã ký hợp đồng và có nghĩa vụ làm như vậy. Nhà đầu cơ gặp nguy cơ có thể thua lỗ nêu giá cổ phiếu tăng trên 110, ví dụ 120. Khi đó, người này sẽ mua cổ phiếu với giá 120 và bắt buộc phải bán với giá 110, bị lô 10. Chú ý rằng đầu cơ như vậy không bao gồm phí tổn tiền mặt khi ký hợp đổng. Sự khác biệt của người phòng ngừa rủi ro và nhà đầu cơ là người phòng ngừa rủi ro nắm giữ cổ phiêu còn nhà đầu cơ thì không.

Lợi ích một hợp đồng giao sau

     Lợi ích một hợp đồng giao sau là một đường ngang vào khi đáo hạn, ví dụ 110 khi đường giá giao ngay là đường chéo thứ nhất và trục ngang biểu thị giá giao ngay chưa biết trong tương lai. Giá trị hòa vốn quyết định người bán kỳ hạn thắng hay thua là 110. 



Giới thiệu về giá giao ngay và giá giao sau

     Hãy xem xét cổ phiếu. Không có hợp đồng giao sau đối với cổ phiếu, mặc dù có hợp đồng giao sau đối với chỉ số cổ phiếu. Tuy nhiên có thể tạo ra một giá giao sau khá dễ dàng. Chúng ta hãy xem cách tạo ra giá giao sau cho cổ phiếu:

- So là giá hiện tại, ví dụ 100

- St là giá trả sau của một cố phiếu vào thời điểmT

- r là tỷ lệ cho vay – mượn không rủi ro từ 0 tới X ví dụ r=10%


Giới thiệu về giá giao ngay và giá giao sau



     Để tạo ra một giá giao sau trong khoảng thời gian T, chúng ta có thể thực hiện những giao dịch sau. Hôm nay, chúng ta vay 100 với lãi suất 10% và mua cổ phiếu ở giá giao ngay hiện tại So=100. Ngày mai (T«l), giá giao sau “công bằng” của việc giữ cổ phiếu đen ngày giao dịch kỳ hạn là giá ban đầu cộng với chi phí vay. Giá giao sau công bằng này nên là 100+100xl0%=110. Công thức chung cho giá giao sau như vậy là So(l+r).

    Giá giao sau duy nhất ổn thỏa không dẫn tới kinh doanh chênh lệch giá là 110. Để biết tại sao, hãy xem xét trưởng hợp giá giao sau không phải là 110. Ví dụ, bắt đầu với Sơ=lQ0 và giá giao sau St=115>110, sẽ có những cơ hội bán chênh lệch giá có lời. Người bán kỳ hạn cổ phiếu sẽ mua cổ phiếu ở giá 100 bằng cách mượn và bán với giá 115/lời 5. Chu trình giao dịch là:

- Hôm nay: mượn 100 với lãi suất r=10%

- Mua cổ phiêu với giá 100

- Ngày mai (T=l) với giá 115 (giao sau)

- Doanh thu vào thời điểm T=1 là 115-110=5

     Quá trình này sẽ tiếp tục và giá giao ngay tăng do nhu cầu cổ phiếu hôm nay, trong khi lượng cung cổ phiếu ngày mai đẩy giá giao sau xuống. Việc kinh doanh chênh lệch giá là có lợi cho tới khi giá giao sau đúng bằng giá giao ngay công với lãi suất vay để mua cổ phiếu hôm nay.

     Tựu chung, tài sản nào cũng có thể có một giá giao sau. Giá giao sau được xác định bởi quy luật cung cầu vào thời điểm tương lai đó. Nhưng giá giao sau vẫn có liên hệ với giá hiện tại của tài sản và lãi suất Quan hệ giữa giá giao ngay và giá giao sau bắt nguồn từ khả năng vay mượn để mua tài sản và sau đó bán vào một thời điểm trong tương lai bao gồm chi phí của lãi suất. Chi phí vay cho tới ngày hết hạn thanh toán là chi phí di chuyển từ hiện nay cho tới ngày mai.





Từ khóa tìm kiếm nhiều: rủi ro tài chính, khủng hoảng tài chính

Hợp đồng giao sau là gì?

     Hợp đồng giao sau là một hợp đồng định giá của một tài sản cho một thời điểm trong tương lai. “Trưởng vị” trong hợp đồng giao sau là một cam kết sẽ mua tài sản, và “đoản vị” trong hợp đổng giao sau là một cam kết sẽ bán sản phẩm.

Một ví dụ đơn gin về hợp đồng giao sau:

    Những hợp đồng như vậy rất phổ biến, như được minh họa trong ví dụ không tài chính sau đây. Giả sử rằng bạn mua một cuốn sách từ hiệu sách để được chuyển tới trong vòngmột tháng. Bạn cam kết sẽ trả 10$ cho hiệu sách khi cuốn sách được chuyển tói. Bạn đang mua hàng và sẽ nhận hàng một tháng kể từ ngày hôm nay. Người bán hàng đang bán kỳ hạn cho bạn vì anh ta hứa sẽ gửi sách trong một tháng với giá 10$. Quyển sách được gọi là “công cụ được giao chuyển”. Vị thế kỳ hạn này ẩn chứa những rủi ro.


Hợp đồng giao sau là gì?



    Bất kể giá sách thay đổi thế nào, một bên cũng có lợi khi vi phạm nghĩa vụ trả nợ bởi vì họ bị thua lỗ. Nếu giá quyển sách giảm xuống còn 6$, người mua có thể muốn mua với giá 6$ thay vì giá ban đầu 10$ từ tiệm sách. Nếu giá sách tăng lên 15$, tiệm sách có động cơ không gửi đi cuốn sách và vi phạm cam kết: bán quyển sách cho người mua với giá 10$. Do đó, động cơ hay nghĩa vụ là điều cần thiết để giảm đi khả năng không tuân thủ hợp đồng.

    Thị trường future là những thị trưởng có tổ chức của hợp đồng giao sau. Lời và lỗ được viết vào phần tài khoản ký quỹ. Tài khoản sẽ được ghi cho vay hoặc ghi nợ đối với người mua và người bán. Tài khoản của tất cả những người mua bán được tập trung ở một phòng thanh toán bù trừ – một hệ thống kế toán duy nhất cho tất cả ngươi mua và bán. Lời lỗ sẽ được giải quyết hàng ngày. Lượng tiền lớn nhất người bán có thể tránh phải “trả” là lượng giá tăng trong một ngày nêu người bán không gửi thêm tiền mặt, trong trường hợp chi phí cơ hội của mua bán kỳ hạn vượt qua thua lỗ của ngày hôm trước. Lượng tiền mặt gửi đi được điều chỉnh mỗi ngày. Lượng lời lỗ tích lũy của mỗi bên là tổng lượng lời lỗ từ hợp đồng giao sau. Bằng cách gửi đi tiền thua lỗ hàng ngày cho người mua hoặc người bán, động cơ từ bỏ hợp đồng giảm xuống chỉ còn là tiền lỗ của một ngày.

    Quay trở lại với ví dụ, khi người mua có lời, tiền lời là hình ảnh phản chiếu tiền lỗ của người bán. Do đó, người mua đang cho người bán vay. Nếu giá giảm, điều này sẽ giảm lượng thua lỗ của người bán và sẽ dần chuyển thành tiền lời khi giá giảm xuống thấp hơn giá được định sẵn trong hạp đồng giao sau vào thời điểm bán. Nếu giá quyển sách tăng lên thành 11, người mua sẽ được lời 1$ và người bán lỗ 1$. Trong một thị trường có tổ chức, người bán sẽ phải bị lỗ 1$ trong tài khoản ký quỹ. Tiền thua lỗ phải được trả và không được trốn tránh.




Khái niệm và những đặc trưng của phái sinh

     Một phái sinh là một tài sản có giá trị phụ thuộc vào một tài sản khác hoặc một thông số thị trưởng, được gọi là tài sản cơ sở (hoặc thông số thị trưởng cơ sở). Một hợp đồng giao sau về lãi suất ngày hôm nay sẽ cố định một lãi suất được áp dụng ngày mai trong một khoảng thời gian được định trước. Khi ký một hợp đồng giao sau, người mua hoặc bán có trách nhiệm tuân thủ những điều luật của hợp đồng khi đáo hạn. Người mua quyền chọn bán (mua) đốivới cổ phiếu có quyền bán (mua) một cổ phiếu với giá định trước trong một khung thời gian nhất định. Người bán quyền chọn có trách nhiệm tuân theo những quyền lợi trên hợp đồng của người mua quyển chọn.

     Hợp đồng hoán đổi được nói tới và  được định nghĩa về lãi suất và tỷ giá hối đoái, và thuộc về một tập hợp lớn những hợp đồng giao sau. Phái sinh có thể được áp dụng với những cơ sở:


  • Cổ phiếu

  • Chỉ số cổ phiếu

  • Lãi suất và tỷ giá hối đoái

  • Trái phiếu

  • Quyền chọn hợp đồng giao sau

  • Hàng hóa

  • Điện

  • Thời tiết

  • Bồi thường
Khái niệm và những đặc trưng của phái sinh



     Những công cụ được buôn bán được phân nhóm tùy thuộc vào bản chất của tài sản cơ sở. Có ba nhóm chính là: cổ phần; thu nhập cố định: nhóm tất cả những công cụ có lãi suất hoặc dựa vào tỷ giá hối đoái; và tín dụng-mục phái sinh gần đây nhất, với cơ sở là rủi ro tín dụng của tài sản. Kết hợp hai loại hợp đồng chính: hợp đồng giao sau và hợp đồng quyền chọn với ba phân nhánh thị trưởng, sẽ bao trùm tất cả những loại công cụ thông thường- Chú ý rằng một số phái sinh là những công cụ hỗn hợp, với những thành phần thuộc về hai nhóm khác nhau. Ví dụ một công cụ quan to loại bỏ rủi ro trong kinh doanh ngoại hối: một chỉ số cổ phiêu quan to cho phép có một vị thế trên một chỉ số cổ phiếu sử dụng ngoại tệ, với doanh thu dùng đơn vị tiền tệ địa phương, mà không có bất kỳ rủi ro ngoại hối nào.

     Nguyên tắc bản sao quy định rằng bất kỳ tài sản nào cũng có thể được tái tạo bằng sự kết hợp của những tài sản tài chính khác, tùy thuộc vào những điều kiện nhất định. Nguyên lý bản sao cho phép hiểu cách xây dựng những sản phẩm, đặc biệt là hợp đồng giao sau và hợp đồng hoán đổi, như được minh họa ở phần sau. Hệ quả là vô cùng lớn lao. Một hệ quả quan trọng là “quy luật một giá”, nói rằng giá của tài sản phải giống như giá của danh mục đầu tư bản sao. Đây là một quy luật cơ bản trong tài chính. Một hệ quả khác là các sản phẩm có thể được tạo ra bởi danh mục đầu tư bản sao. Trong những chương này về phái sinh, chúng ta sẽ dùng nguyên lý bản sao để chỉ ra rằng những hợp đồng giao sau đơn giản có thể được xây dựng như thế nào để trở thành danh mục đầu tư của những tài sản khác.

     Người sử dụng cuối cùng của phái sinh là những người đầu tư và cho vay, ví dụ như các tập đoàn, ngân hàng, công ty bảo hiểm và quỹ. Phái sinh được dùng vừa để hạn chế rủi ro vừa để đầu cơ. Những giao dịch phòng ngừa rủi ro đặc trưng là những giao dịch dùng để hạn chế sự bất định của những giao dịch công nghiệp và giao dịch thương mại nhất đinh, ví dụ bằng cách định ra một giá mua ngày hôm nay cho những hàng hóa bán ngày mai. Tuy nhiên, giới hạn giữa đầu cơ và phòng ngừa rủi ro là khá mỏng manh. Ví dụ hôm nay định giá mua cho ngày mai cũng có thể được coi là một cá cược sẽ thắng khi giá trong tương lai thấp hơn giá mua đã được định ra ngày hôm nay cho ngày mai. Sự khác biệt giữa những người phòng ngừa rủi ro và những nhà đầu cơ là người phòng ngừa rủi ro có một vị thế ban đầu trong khi người đầu cơ thì không




Giới thiệu khái quát về vị thế, nguy cơ và sàn lợi ích

    Một vị thế đồng nghĩa với một nguy cơ, được định nghĩa là bất kỳ giao địch nào có nguy cơ thua lỗ. Vị thế và nguy cơ là tiền mặt khi những cụm từ này nói về việc mua hoặc bán hoặc vay và mượn. Nắm giữ một tài sản tiền mặt là một trường vị (long position). Ban một tài sản là đoản vị (short position). Ví dụ, trưởng vị trong cổ phần nghĩa là nắm giữ một cổ phiếu. Đoản vị đối với một trái phiếu nghĩa là đã bán trái phiếu. Cụm từ trương vị/đoản vị áp dụng với bất kỳ loại tài sản nào. Một người mua kỳ hạn một quyền. mua có trưởng vị trong hợp đổng này.

     Hãy xem xét vị thế cổ phần. Trưởng vị sẽ có lời khi giá cổ phiếu tăng. Đoản vị đối với cỗ phiếu nghĩa là cần bán cổ phiếu. Bán khống (short sale) cổ phần cho phép có lãi khi giá cổ phiếu giảm. Cụ thể hơn, bán khống có nghĩa là không sở hữu mà mượn một tài sảnmột người khác, bán rồi mua lại nó để trả lại cho người cho vay. Một ví dụ sẽ minh họa người bán khống cổ phần sẽ có lợi khi giá cổ phần giảm.


Giới thiệu khái quát về vị thế, nguy cơ và sàn lợi ích



     Hôm nay, giá cổ phiếu là 100. Người bán không mượn cổ phiếu và bán nó, với doanh thu tiền mặt là 100. Ngày mai, nếu giá cổ phiếu thấp hơn, ví dụ 90, người bán không mua lại cổ phiếu với giá 90, kiêm được khoản lời 100-90=10, và trả lại tài sàn cho ngườicho mượn cổ phiếu. Mặt khác, nếu giá cổ phiếu tăng, người bán khống sẽ bị lỗ bởi   lại cổ phiếu với giá 110, và tiền lỗ là 100-110= -10, sau khi trả lại cô phiếu cho ngườicho mượn. Tiền lỗ và lãi của bán không ngược lại đối với trưởng vị. Bán khống cho phép kiếm lời khi thị trưởng giảm giá.

     Sàn lợi ích là doanh thu của giao dịch tương lai như một hàm số của tài sản cơ sở mà một người có vị thế. Biểu đồ lợi ích chỉ ra một người sẽ nhận được bao nhiêu khi giá trị của một vị thế thay đổi. Trục X là giá trị có thể của tài sản, trục y là khoản lời hay lãi khi hợp đổng kết thúc hoặc đáo hạn.

     Trưởng vị có nghĩa là mua hoặc nắm giữ một tài sản hay hợp đổng của một  tài sản. Đoản vị nghĩa là bán hoặc mượn một tài sản hoặc hợp đồng của tài sản. Ví dụ, kỳ hạn-trưởng vị có nghĩa là ký hợp đồng để mua một tài sản vào một thời điểm trong tương lai và kỳ hạn-đoản vị nghĩa là ký hợp đồng để bán tài sản vào một thòi điểm trong tương lai. Thuật ngữ như trên cũng áp dụng với hợp đổng quyền chọn. Người mua quyền chọn mua cổ phiêu có quyền chọn-trưởng vị. Ngược lại, người bán quyền chọn mua có quyền chọn giá-đoản vị.




Từ khóa tìm kiếm nhiều: các loại rủ ro, khủng hoảng tài chính 2008

Giới thiệu khái quát về phái sinh

     Phái sinh là những hợp đồng về tài sản cơ bản, ví dụ như cổ phiếu và trái phiếu, hay những thông số thị trưng, ví dụ như lãi suất hay tỷ giá hối đoái. Có hai loại phái sinh: hợp đổng giao sau và hợp đồng quyển chọn. Hợp đồng giao sau lập ra ngày hôm nay sẽ định giá cho ngày mai cho người mua và bán. Hợp đổng quyền chọn là quyền bán (quyền chọn bán) và quyền mua (quyền chọn mua) sản phẩm với giá được định sẵn ngày hôm nay cho đếnngày đáo hạn của hợp đổng. Phái sinh có thể sử dụng để phòng ngừa rủi ro hoặc đầu cơ.


Giới thiệu khái quát về phái sinh



     Một người bán tài sản vào một ngày trong tương lai sẽ muốn tìm cách được bảo vệ nếu giá giảm. Việc bán kỳ hạn và quyền chọn bán sẽ tạo ra sự bảo đảm như vậy. Những hợp đổng này cũng có thể dùng để đầu cơ. Một người đầu cơ cá cược rằng giá trị tài sán sẽ vượt trên mức một giá nhất định có thể mua kỳ hạn tài sản đó hoặc mua một quyền chọn mua đối với tài sản đó. Phái sinh ở đây chủ yêu được nhìn nhận trên một góc nhìn quản lý rủi ro, khi phái sinh thưởng được sử dụng với mục đích phòng ngừa rủi ro. Những công cụ được phòng ngừa rủi ro ở đây là những vị thế thị trưởng cơ sở ví dụ như cổ phiếu trong trường hợp hợp đồng cổ phần.

     Bài tổng quát này về những sản phẩm thị trưởng bắt đầu từ vị thế tiền mặt và tiến tới những phái sinh căn bản. Sau khi định nghĩa vị thế tiền mặt và vị thế phái sinh/ bài tổng quát phái sinh được tổ chức thành hai phần: hợp đổng giao sau và hợp đổng quyền chọn. Những bài tổng quát sản phẩm sẽ bao gồm các ví dụ, tính chất cơ bản của công cụ, và cách những công cụ này có thể được dùng với mục đích phòng ngừa rủi ro và đầu tư và nguyên tắc định giá. Hợp đồng phái sinh được giới thiệu ở đây với những tài sản cơ sở là cổ phiếu. Ba chương tiếp theo sẽ giới thiệu phái sinh lãi suất, phái sinh tỷ giá hối đoái và phát sinh tín dụng.


Những khoản ngoài bảng cân đối kế toán

      Đây là những cam kết của ngân hàng không đòi hỏi kinh phí tin mặt ban đầu. Chúng là những cam kết từ bên thứ ba hoặc phái sinh tín dụng. Trong trường hợp người chịu trách nhiệm trả nợ trực tiếp bị vỡ nợ, nó sẽ tạo ra nguy cơ tín dụng cho người đảm bảo, có thể là người đảm bảo trực tiếp hoặc người bảo vệ thông qua phát sinh tín dụng. Bởi vì những khoản này có rủi ro tín dụng, chúng được xử lý theo quy định của Basel 2. Basel 2 đưa ra định nghĩa của những khoản này.


Những khoản ngoài bảng cân đối kế toán



     Những vật thay thế tín dụng trực tiếp, ví dụ những đảm bảo nợ (bao gồm thư tín dụng đảm bảo cho những khoản vay và cổ phiếu) và giấy thừa nhận (bao gồm giấy chứng thực) việc các ngân hàng cho vay cổ phiếu hoặc lấy cố phiếu làm thế chấp, bao gồm cả trong trường hợp giao địch kiểu repo.

      Những khoản liên quan tới giao dịch: thư tín dụng dự phòng liên quan tới những giao dịch cụ thể .Một đảm bảo hay phái sinh tín dụng phải đại diện cho cho một bồi khoản với người cung cấp phòng hộ và phải liên quan trực tiếp tới những nguy cơ cụ thể. Đảm bảo phải vô điều kiện và không thể hủy bỏ.

Thư tín dụng tự thanh lý ngắn hạn xuất phát từ việc vận chuyển hàng hóa

     Những sản phẩm phái sinh được trình bày cụ thể trong chương 6 đến 9. Phát sinh là một tài sản có giá trị tùy vào một tài sản khác hay thông số thị trường, gọi là tài sản cơ sở hay thông số thị trường cơ sở. Chúng bao gồm phát sinh tín dụng, sản phẩm gần đây nhất. Những sản phẩm khác như hợp đồng giao sau, hợp đồng hoán đổi, và quyền chọn được mô tả kỹ hơn ở các chương sau vi tẩm quan trọng của chúng với quản lý rủi ro.


Những khoản nằm ngoài của bảng cấn đối kế toán

    Đây là những cam kết của ngân hàng không đòi hỏi kinh phí tiền mặt ban đầu. Chúng là những cam kết từ bên thứ ba hoặc phái sinh tín dụng. Trong trường hợp người chịu trách nhiệm trả nợ trực tiếp bị vỡ nợ, nó sẽ tạo ra nguy cơ tín dụng cho người đảm bảo, có thể là người đảm bảo trực tiếp hoặc người bảo vệ thông qua phátsinh tín dụng. Bởi vì những khoản này có rủi ro tín dụng, chúng được xử lý theo quy định của Basel 2. Basel 2 đưa ra định nghĩa của những khoản này.


Những khoản nằm ngoài của bảng cấn đối kế toán



-  Những vật thay thế tín dụng trực tiếp, ví dụ những đảm bảo nợ (bao gồm thư tín dụng đảm bảo cho những khoản vay và cổ phiếu) và giấy thừa nhận (bao gồm giấy chứng thực) việc các ngân hàng cho vay cổ phiếu hoặc lấy cố phiếu làm thế chấp, bao gồm cả trong trường hợp giao địch kiểu repo.

- Những khoản liên quan tới giao dịch: thư tín đụng dự phòng liên quan tới những giao dịch cụ thể. Một đảm bảo hay phái sinh tín dụng phải đại diện cho cho một bồi khoản với người cung cấp phòng hộ và phải liên quan trực tiếp tới những nguy cơ cụ thể. Đảm bảo phải vô điều kiện và không thể hủy bỏ.

- Thư tín dụng tự thanh lý ngắn hạn xuất phát từ việc vận chuyển hàng hóa.

-  Phát sinh là một tài sản có giá trị tùy vào một tài sản khác hay thông số thị trường, gọi là tài sản cơ sở hay thông số thị trường cơ sở. Chúng bao gồm phát sinh tín dụng, sản phẩm gần đây nhất. Những sản phẩm khác như hợp đồng giao sau, hợp đồng hoán đổi, và quyền chọn được mô tả kỹ hơn ở các chương sau vì tầm quan trọng của chúng với quản lý rủi ro.

Đọc thêm tại:

    Chứng khoán hóa cổ điển và chứng khoán hóa tổng hợp

    Chứng khoán hóa cổ điển

          Là một cấu trúc khi dòng tiền từ một nhóm các nguy cơ cở sở được dùng để phục vụ cho ít nhất hai vị thế rủi ro khách nhau hoặc hai trái phiếu có mức độ rủi ro tín dụng khác nhau. Tiền trả cho nhà đầu tư phụ thuộc vào hoạt động của nguy cơ cơ sở cụ thể, chứ không phải từ nghĩa vụ của người phát hành trái phiếu.Cấu trúc chia nhỏ phân tầng trái phiếu trong chứng khoán hóa khác với cấu trúc nợ cao cấp/cấp thấp thông thưởng ở chỗ những trái phiếu cấp thấp có thể hấp thụ những khoản thua lỗ mà không cản trở việc trả tiền cho những trái phiếu cao cấp hơn, trong khi cấu trúc cao cấp/cấp thấp đồng nghĩa với việc ưu tiên hóa quyền lợi trong quá trình thanh lý.     “Cấu trúc phân nhờ nợ” với bốn mức độ cao cấp khác nhau của những khoản nợ, được đảm bảo bởi dòng tiền của SPE, được bán cho những nhà đầu tư cung cấp vốn cho phương tiện chứng khoán hóa. Phần lớn các vụ chứng khoán hóa là theo kiểu cổ điển. Chứng khoán hóa tống hợp chỉ xuất hiện khi những công cụ tín dụng cho phép tạo ra những phương tiện đó xuất hiện.


    Chứng khoán hóa cổ điển và chứng khoán hóa tổng hợp



    Chứng khoán hóa tổng hợp

         Đó là danh mục đầu tư của phát sinh tín dụng mua bởi SPE, và bán cho người mua đang muốn có sự bảo vệ tín dụng. Phái sính tín dụng thường là hợp đồng bảo hiểm nợ xấu (CDS), báo vệ tín dụng cho ngươi mua. Sự bảo vệ này là việc người bán trả những khoảnthua lỗ do một sự kiện tín dụng cho người mua CDS. Để hiểu cơ chế cơ bản của chứng khoán hóa tổng hợp, có thể coi chúng như những hợp đổng bảo hiểm: người bán phát sinh tín dụng nhận một khoản phí và trả khoản thua lỗ ước tính của tài sản cơ sở nếu ngườimua bị vỡ nợ. Nhà đầu tư vào SPE chấp nhận nguy cơ tín dụng của những phái sinh tín dụng. Nó tổng hợp ở chỗ nó sao chép nguy cơ với rủi ro tín dụng của một danh mục đầu tư tài sản thông qua phát sinh tín dụng với những tài sản cơ sở này.

         Chứng khoán hóa tổng hợp là một cấu trúc với ít nhất hai vị thế rủi ro khác nhau phản ánh những mức độ rủi ro tín dụng khác nhau khi rủi ro tín dụng của một nhóm nguy cơ cơ sở được chuyển giao, toàn phần hoặc một phần, thông qua những phát sinh tín dụng được cấpvốn (ví dụ trái phiếu liên quan tới tín dụng) hoặc không được cấp vốn (hợp đồng bảo hiểm nợ xấu) hoặc là những bảo đảm nhằm phòng ngừa rủi ro tín dụng của danh mục đầu tư. Theo đó, rủi ro tiềm tàng của những nhà đầu tư phụ thuộc vào hoạt động của những nguy cơ cơ sở.

         Khi toàn bộ cấu trúc được cấp vốn, điều đó có nghĩa nhà đầu tư mua trái phiếu mang lại một lãi suất không rủi ro cộng với một chênh lệch. Lãi suất không rủi ro được nhận bởi SPE và trả chonhà đầu tư bằng cách đầu tư doanh thu tiền mặt vào những tài sản không rủi ro. Những cấu trúc không vốn trả một khoản phí cho nhà đầu tư từ số doanh thu của phát sinh tín dụng.


    Đặc trưng của mỗi loại chứng khóa hóa

        Tài sản nào cũng có thể được chứng khoán hóa. Những vụ chứng khoán hóa đầu tiên được đảm bảo bởi những khoản nợ thế chấp, thưởng là chất lượng cao, và những trái phiếu phát hành được gọi là “chứng khoán dựa vào thếchấp”. Chứng khoán hóa mở rộng nhanh chóng và bao gồm nhiều loại tài sản như các khoản vay doanh nghiệp, trái phiếu, nợ, những khoản phải thu của thẻ tín dụng, khoản phải thu từ cho thuê và tòa nhà văn phòng (tạo ra dòng tiền từ tiền thuê nhà). Chúng được gọi tắt là CLO hay CDO có nghĩa là “những nghĩa vụ nợ có thế chấp”. Mỗi loại chứng khoán hóa có những đặc tính riêng. Chứng khoán hóa thẻ tín dụng đòi hỏi phải được trả định kỳ hàng tháng trong 7 năm với những khoản phải thu thẻ tín dụng mới, bởi vì cho vay tiêu dùng thông qua thẻ có thời gian đáo hạn ngắn, và chi phí tạo ra phương tiện cần phải được trả dần trong nhiều năm.


    Đặc trưng của mỗi loại chứng khóa hóa



        Sự mở rộng của chứng khoán hóa là yếu tố chủ chốt trong sự biến chuyển từ mô hình “phát hành nợ và nắm giữ” thành “phát hành nợ và phân phối”, Từ “phân phối” trong mô hình kinh doanh mới có nghĩa là sự phân phối rủi ro của tài sản được chứng khoán hóa với những nhà đầu tư. Chứng khoán hóa phải ngừng trong cuộc khủng hoàng tài chính 2007-2008 vì nó được coi là nhân tố lây lan rủi ro chính trong hệ thống tài chính và một số vụ chứng khoán hóa những tài sản độc hại đã gây ra những hậu quả nghiêm trọng. Những trái phiếu dựa vào tài sản đã bị tụt hạng đáng kể chứng tỏ chất lượng yếu kém của chúng.

        Trong trường hợp nghĩa vụ nợ có thế chấp (CDO), chứng khoán hóa được phân tách dựa theo nguyên nhân tạo ra khoản vay. CĐO bảng cân đối kế toán sử dụng những tài sản trên bảng cân đối kế toán và nguyên nhân bán những tài sán này là để tiết kiệm chi phí vốn điều chỉnh, tự do hóa vốn đế tiếp tục kinh doanh. Trong trường hợp này, các ngân hàng bán rủi ro tín dụng cho những nhà đấu tư với giá cao hơn chí phí “công bằng” của rủi ro tín dụng. Ac-bit sinh lời nhưng không phải là không có rủi ro. Cơ hội ac-bít như vậy tổn tại nếu xếp hạng trái phiến không phản ánh rủiro thật sự của trái phiếu. Rủi ro “thực” của trái phiếu được mô phỏng bằng các mô hình danh mục đầu tư tín dụng. Nó phụ thuộc vào rủi ro theo mô hình. Nhưng miễn tiền trả cho nhữngnhà đầu tư thấp hơn thu nhập dự đoán của trái phiếu, nợ vẫn tạo ra doanh thu cho ac-bít.


    Chứng khoán hóa và sự thay đổi của bất động sản thương mại

    Bất động sản thương mại có tính thay đổi cao (HVCRE)

        Cho vay HVCRE là cấpvốn cho bất động sản có tính bất ổn tỷ lệ cao hơn so với các loại hình vay chuyên đụng khác.

    HVCRE bao gồm:

    -       Những nguy cơ bất động sản thương mại được đảm bảo bởi những loại tài sản được đơn vị giám sát quốc gia phân loại là có tính bất ổn tỷ lệ với nợ cao hơn

    -       Những khoản nợ cung cấp vốn cho việc mua đất, xây dựng và phát triển (ADC) cho những loại tài sàn này

    -       Những khoản nợ cấp vốn cho việc mua, xây dựngvà phát triển của những bất động sàn mà nguồn tiền trả nọ là từ bán tài sản không chắc chắn trong tương lai hoặc những dòng tiễn rất không chắc chắn (ví dụ: tài sản chưa được cho thuê hoặc lượng người thuê không đảm bào), trừ khi người đi vay có số vốn sò hữu rủi ro lớn.


    Chứng khoán hóa và sự thay đổi của bất động sản



    Chứng khoán hóa

          Một tập hợp những quy định được áp dụng cho chứng khoán hóa vì những tiêu chi thông thưởng cho rủi ro tín dụng hay quy định về biện pháp vốn không áp dụng được Chứng khoán hóa là những giao dịch đặc biệt khi tài sản được bán cho nhà đẩu tư. Khi chứng khoán hóa một khoản nợ, ngân hàng bán khoản nợ cho SPE và SPE phát hành trái phiếu với mức độ cao cấp khác nhau. Những trái phiếu dựa vào nọ này được bán cho những nhà đầu tư, họ mua chúng dựa trên xếp hạng của một cơ quan xếp hạng.

         Việc cấp vốn thông qua nhiều trái phiếu thay vì một trái phiếu được gọi là chia nợ nhiều phần, mỗi trái phiếu là một phần của tổng vốn được các nhà đẩu tư cung cấp. Những trái phiêu cao cấp được trả trước và những trái phiếu thấp hơn được trả cuối cùng. Những trái phiêu thấp nhất có thể mất hết giá trị bởi vì mọi thua lỗ của danh mục đầu tư sẽ trút vào trái phiếu từ thấp nhất đến cao nhất.

         Những điều căn bản về SPE khá đơn giản. Có thể chứng khoán hóa một tài sản nếu dòng tiền dự đoán được tạo ra từ tài sản đó đủ để trả cho những nhà đầu tư. Bởi vì dòng tiền chi được tiên đoán, các nhà đẩu tư luôn phải chấp nhận rủi ro, mức độ cao cấp của trái phiếu càng thấp thì rủi ro càng cao. Xếp hạng và chênh lệch tín dụng của mỗi loại trái phiếu tùy vào độ cao cấp của nó.






    Từ khóa tìm kiếm nhiều: rủi ro tài chính, khủng hoảng tài chính

    Tài chính hàng hóa (CF), bất động sản tạo thu nhập (IPRE)

    Tài chính hàng hóa (CF)

        Đây là kiểu cho vay cu trúc ngắn hạn dành cho những đơn vị dự trữ tài chính, hàng tồn kho hay khoản phải thu của những hàng hóa trao đổi ngoại hối (dầu thô, kim loại và cây trồng). Tiền thanh toán nợ là từ doanh thu khi bán hàng hóa và người đi vay không có khả năng độc lập để trả nợ. Đây là trưởng hợp khi người đi vay không có hoạt động hay tài sản nào khác trên bảng cân đối kế toán. Tính câu trúc của việc cấp vốn sẽ đền bù cho khả năng tín dụng yếu của người đi vay. Xếp hạng của nguy cơ sẽ phản ánh tính “tự thanh lý” của nó và kỹ năng của người đi vay khi câu trúc giao dịch chứ không phản ánh chất lượng tín dụng của người đi vay.


    Tài chính hàng hóa, bất động sản tạo thu nhập


        Hội đồng cho rằng việc cho vay này khác với nguy cơ cấp vốn cho các cục dự trữ, hàng tồn kho hay khoản phải thu của những đối tượng đi vay doanh nghiệp đa dạng (phân tán) hơn. Các ngân hàng có thể xếp hạng chất lượng tín dụng của đối tượng thứ hai (doanh nghiệp phân tán) dựa vào những hoạt động rộng hơn của họ. Trong những trưởng hợp đó, giá trị của hàng hóa, thay vì nguồn trả nợ chính, trở thành một công cụ giảm rủi ro.

    Bất động sản tạo thu nhập (IPRE)

        Khái niệm này nói tới phương pháp cấp vốn đối với bất động sản ví dụ như các tòa nhà văn phòng cho thuê, địa điểm bán lẻ, những tòa nhà chung cư, kho hàng và khách sạn, khi khả năng trả nợ chủ yếu phụ thuộc vào dòng tìm tạo ra từ tài sản. Nguồn chính của dòng tiền là từ tiền cho thuê hay việc bán tài sản.

        Người đi vay có thể nhưng không bắt buộc phải là SPE, một công ty tập trung vào xây dựng bất động sản, hay một công ty có nguồn doanh thu ngoài bất động sản. Đặc tính phân biệt IPRE với những nguy cơ doanh nghiệp được thế chấp bằng bất động sản là tính đổng biên mạnh giữa khả năng trả nợ và khả năng hồi phục trong trưởng hợp vỡ nợ. Cả hai khả năng này phụ thuộc vào dòng tiền tài sản tạo ra.




    Từ khóa tìm kiếm nhiều: rủi ro tài chính, rủi ro tín dụng

    Popular Posts