Cập nhật liên tục, chính xác các thông tin, sự kiện, chính sách, diễn biến của thị trường tài chính ngân hàng Việt Nam với nhiều tin độc quyền..
Monday, November 4, 2013
Monday, October 14, 2013
Tài liệu Diễn đàn Kinh tế mùa Thu năm 2013

Dưới đây là tài liệu Diễn đàn kinh tế mùa Thu diễn ra trong tháng 09/2013.
Các bạn có thể download về theo link sau:
http://bit.ly/16H8Uan
Tài liệu diễn đàn kinh tế mùa Xuân đầu năm 2013 cũng có sẵn tại đây:
http://bit.ly/19zaWYw.
--------
Like và share Economica fanpage: www.facebook.com/economica.vn
Xin cảm ơn!
Wednesday, May 8, 2013
Một số vấn đề về chính sách quản lý thị trường vàng
Trong chương trình Dân hỏi – Bộ trưởng trả lời trên truyền hình tối 5/5, thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Nguyễn Văn Bình có nêu ra quan điểm tiếp cận của các chính sách với thị trường vàng. Cách tiếp cận ấy nếu nếu tóm tắt lại thì có thể thấy Ngân hàng Nhà nước đang nhằm từng bước hướng tới các mục tiêu: (i) đầu tiên là xây dựng một khuôn khổ pháp lý chặt chẽ để quản lý thị trường vàng; (ii) tiến tới chấm dứt hoạt động huy động và cho vay vốn bằng vàng của tổ chức tín dụng; và (iii) cuối cùng sẽ chuyển hoàn toàn quan hệ huy động, cho vay vốn bằng vàng sang quan hệ mua, bán vàng miếng.
Tuy nhiên, mục tiêu là như vậy nhưng cách thực hiện của Ngân hàng Nhà nước không khỏi khiến nhiều chuyên gia và người quan tâm cảm thấy thắc mắc. Sau những phiên đấu thầu, những vấn đề trong chính sách quản lý thị trường vàng ngày càng bộc lộ. Việc đấu thầu vàng phải chăng chỉ giúp các ngân hàng “tất toán” trạng thái vàng? Tại sao Ngân hàng Nhà nước lại phải làm thế? Việc này có bắt nguồn từ sai lầm trước đây của Ngân hàng Nhà nước hay không? Hơn nữa, mục tiêu cuối cùng là chống vàng hoá, ổn định vĩ mô liệu có đạt được khi mà vàng từ dự trữ ngoại hối của quốc gia, tức vàng tiền tệ được đem ra bán rộng rãi ra bên ngoài sau các phiên đấu giá?
Ngân hàng Nhà nước kỳ vọng mọi thứ sẽ đi đúng hướng sau thời điểm hoàn toàn chấm dứt nghiệp vụ huy động – cho vay vàng của các tổ chức tín dụng vào 30/6/2013. Điều này cho thấy họ chấp nhận những vấn đề trong ngắn hạn để tập trung cho mục tiêu lâu dài hơn. Dù vậy, cách làm của Ngân hàng Nhà nước vẫn chưa đủ thuyết phục được dư luận.
Bài viết sau của nhà báo Nguyễn Vạn Phú sẽ phản biện một số vấn đề liên quan tới chính sách quản lý thị trường vàng:
-----
Sự thật đằng sau việc NHNN liên tục bán vàng
Nói “sự thật” cho kêu vậy chứ đến nay hầu như ai cũng rõ Ngân hàng Nhà nước (NHNN) bán vàng thông qua các phiên đấu thầu là nhằm giúp các ngân hàng thương mại tất toán trạng thái vàng. Vấn đề là vì sao NHNN phải làm như vậy?
Dùng chữ “tất toán” với “trạng thái” có thể gây khó hiểu. Nói theo kiểu đơn giản hóa, là trước đây ngân hàng thương mại huy động vàng của dân về hoặc đem cho vay lại, hoặc bán ra lấy tiền kinh doanh nay phải mua vàng để trả lại cho dân. Cho nên về mặt kỹ thuật có hai loại trạng thái: trạng thái cho vay và huy động và trạng thái kinh doanh. Cái đầu đã có lâu rồi còn cái sau mới có từ cuối năm 2011 và có phần trách nhiệm rất lớn của NHNN.
Đã làm thì phải chịu
Nếu nhớ lại, vào ngày 6-10-2011, NHNN thành lập nhóm G5+1, tức gồm năm ngân hàng thương mại (ACB, Đông Á, Techcombank, Eximbank và Sacombank) cộng với SJC với mục đích bình ổn giá vàng. Các ngân hàng này được chuyển đổi tối đa 40% số vàng tồn quỹ đã huy động của dân từ trước thành tiền mặt, tức bán vàng ồ ạt ra thị trường dưới danh nghĩa bình ổn giá theo yêu cầu của NHNN mặc dù trước đó đã có nhiều văn bản yêu cầu chấm dứt việc huy động vàng, cho vay bằng vàng...
Ngày đầu tiên bán ra 5 tấn và chỉ trong một tuần 10 tấn vàng đã được bán ra, sau đó lên 16 tấn (giá lúc đó khoảng 44-45 triệu/lượng, chênh lệch so với giá vàng thế giới chừng 1 triệu đến 1,5 triệu đồng).
Trên nguyên tắc, các ngân hàng này bán ra bao nhiêu vàng thì phải mua vào bấy nhiêu vàng trên tài khoản ở nước ngoài. Lúc đó ngân hàng nào được chọn cũng “phấn khởi” vì kiếm lãi dễ dàng. Nói là chỉ được bán 40% vàng tồn quỹ nhưng chắc chắn có tình trạng lấy vàng ở các ngân hàng khác về bán bởi lúc đó nhiều ngân hàng không nằm trong G5+1 vẫn nâng lãi suất huy động vàng lên cao, có khả năng đưa vàng cho G5+1 bán, lấy tiền về kinh doanh. Lãi suất huy động vàng được nâng lên cao từ 2% đến 3%, và trên nguyên tắc họ bị cấm huy động vàng nhưng vẫn huy động được theo kiểu giữ hộ. Nhiều nguồn tin nói người dân mua vàng về lại đem vào ngân hàng gởi hưởng lãi, ngân hàng lại tiếp tục bán ra. Tổng số vàng bán ra trong đợt bình ổn giá này là bao nhiêu, không rõ nhưng chắc chắn cao hơn con số 16 tấn, có lẽ vào khoảng 25 tấn như một số nguồn cho biết.
Ai nấy cứ tưởng giá vàng sẽ giảm, lúc đó họ sẽ mua lại vàng để bù lại chỗ đã bán ra hoặc cùng lắm thì nhập vàng từ tài khoản vàng ở nước ngoài về.
Không ngờ NHNN không cho nhập vàng vật chất, dành lấy vị thế độc quyền vàng, giá vàng thế giới lại tăng tiếp mãi cho đến gần đây mới giảm. Vậy là từ đó đến nay các ngân hàng liên tục mua vàng vào để tất toán trạng thái và chịu lỗ nặng. Đông Á cho biết lỗ trên 137 tỷ đồng do phải tất toán tài khoản vàng, ACB lỗ đến 1.800 tỷ đồng mới tất toán xong trạng thái. Eximbank cũng lỗ vài trăm tỷ đồng. Đó là chưa kể vàng trên tài khoản nước ngoài nay cũng lỗ vì mua với giá cao nay giá giảm mạnh.
Một người rành hoạt động kinh doanh vàng kiểu này cho rằng, do liên đới chịu trách nhiệm nên NHNN nay phải tìm cách bán vàng cho các ngân hàng thôi. Có người cho rằng các ngân hàng đã tất toán trạng thái kinh doanh vàng nay chỉ còn trạng thái cho vay và huy động vàng mà thôi. Dù sao đi nữa, vàng bán ra bao nhiêu là các ngân hàng mua hết chính vì nhu cầu tất toán đó.
Thử đặt mình vào vị trí của NHNN thì thấy nếu NHNN bán với giá thấp (gần bằng giá quốc tế) thì thiệt hại cho dự trữ quốc gia, lại mang tiếng hỗ trợ cho lợi ích nhóm; cho ngân hàng thương mại nhập khẩu thì phải bán đô-la cho họ với giá chính thức, cũng thiệt hại cho dự trữ ngoại hối. Nhưng thế thì phải nói thật, trình bày cho người dân nắm rõ chứ đừng loanh quanh lúc nói thế này lúc nói thế khác.
Thật ra, nếu NHNN lên tiếng thừa nhận sai lầm vào thời điểm yêu cầu G5+1 bán vàng bình ổn rồi làm đúng cam kết là cho các ngân hàng này nhập vàng từ tài khoản nước ngoài thì đã giải quyết được vấn đề một cách khéo léo hơn nhiều. Đằng này NHNN chọn cách giải thích vòng vo, đòi độc quyền vàng và đích thân bán vàng như một tổ chức kinh doanh. Hành động đó đã có những tác hại sẽ nói kỹ ở phần hai.
Vàng tiền tệ và vàng phi tiền tệ
Người ta thường phân vàng thành hai loại:
Vàng tiền tệ: Theo định nghĩa của các tổ chức tài chính quốc tế thì đây là loại vàng ngân hàng trung ương đưa vào dự trữ ngoại tệ. Tất cả các loại vàng còn lại là vàng phi tiền tệ. Tuy nhiên trong trường hợp Việt Nam, nhiều nhà kinh tế cho rằng cần phải xem vàng miếng do các ngân hàng thương mại huy động từ người dân, trả lãi cho họ, rồi đem cho vay cũng là vàng tiền tệ. Thậm chí vàng được đem ra để làm phương tiện thanh toán vào những năm trước cũng là vàng tiền tệ.
Vàng phi tiền tệ: Gồm cả vàng của người dân mua về làm trang sức, cất giữ như một phương tiện lưu trữ giá trị, hay vàng dùng trong công nghiệp.
Trước đây, NHNN đã làm đúng khi cố gắng hạn chế loại vàng tiền tệ, như không cho ngân hàng thương mại huy động vốn bằng vàng, không cho phép cho vay vốn bằng vàng, không được chuyển đổi vàng cất giữ dùm người dân thành tiền để kinh doanh. Nhà nước cũng dần dần xóa bỏ được thói quen dùng vàng làm phương tiện thanh toán, hiện nay ngay cả mua bán nhà, ít ai tính bằng vàng nữa. Lý do là khi tồn tại vàng tiền tệ trong nền kinh tế, xem như lượng tiền lưu thông bị thay đổi, bị khuếch đại lên, mà sự thay đổi, biến động đó không nằm trong vòng kiểm soát của NHNN nên dễ xảy ra biến động tỷ giá, lãi suất…
Có lẽ phần ở trên ai cũng thấy và ai cũng đồng ý. Chính Thống đốc NHNN Nguyễn Văn Bình cũng nói vàng là ngoại tệ.
Thế thì chỉ vì lý do như ở phần một mà NHNN lại lấy vàng từ dự trữ ngoại hối của quốc gia, tức vàng tiền tệ đem ra bán rộng rãi ra bên ngoài. Có phải Ngân hàng Nhà nước đang đi ngược lại chủ trương chống “vàng hóa” của mình? Có phải Ngân hàng Nhà nước đang pha loãng lượng tiền lưu thông bằng ngoại tệ, một yếu tố nằm ngoài sự kiểm soát của chính mình?
Quản lý dự trữ ngoại hối là một công tác quan trọng, không thể khinh suất bán hết vàng dự trữ trong khi các nước đã từng nâng tỷ lệ vàng dự trữ lên trong những năm qua. Bán như thế thì tỷ lệ vàng trong dự trữ ngoại hối sẽ giảm xuống còn bao nhiêu?
Việc Ngân hàng Nhà nước bán vàng tiền tệ ra thị trường như thế dẫn đến những hệ lụy:
- Hút tiền đồng về trong khi thị trường vẫn đang thiếu thanh khoản, dư nợ tín dụng tăng không đáng kể, đi ngược lại nỗ lực giảm lãi suất của thị trường.
- Làm giảm dự trữ ngoại hối trong bối cảnh xuất siêu chưa bền vững, vẫn còn nguy cơ nhập siêu lớn.
- Thay vì tìm cách huy động vàng trong dân như từng chủ trương, nay lại đưa vàng về cho dân cất dưới nệm.
Chính vì thế nhiều chuyên gia đã tiên đoán việc đấu thầu vàng như hiện nay sẽ không kéo dài được lâu, sẽ phải sớm chấm dứt.
Ở đây có câu hỏi nhiều người đặt ra: vì sao có sự chênh lệch giữa giá vàng trong nước và giá vàng quốc tế cao như thế mặc cho NHNN bán ra thị trường trên 15 tấn vàng? Lý do thì có nhiều nhưng một chuyên gia về vàng đưa ra một lý do mà tôi cho là chính xác nhất: Chừng nào NHNN còn độc quyền về vàng chừng đó giá sẽ còn chênh lệch như thế bởi độc quyền đồng nghĩa với khó mua nên dẫn đến tâm lý găm giữ vàng, ai có đều lo thủ thế nắm giữ chứ không bán ra, làm sao giá không chênh lệch cho được.
Khi NHNN nói và làm sai luật
Nghị định 86 về quản lý dự trữ ngoại hối nhà nước quy định: Dự trữ ngoại hối nhà nước bao gồm “vàng tiêu chuẩn quốc tế”. Điều 10 còn nói rõ hơn: “Vàng của Quỹ dự trữ ngoại hối phải là vàng tiêu chuẩn quốc tế”.
Nghị định 24 về quản lý hoạt động kinh doanh vàng quy định: “Vàng miếng là vàng được dập thành miếng, có đóng chữ, số chỉ khối lượng, chất lượng và ký mã hiệu của doanh nghiệp và tổ chức tín dụng được Ngân hàng Nhà nước cho phép sản xuất hoặc vàng miếng do Ngân hàng Nhà nước tổ chức sản xuất trong từng thời kỳ”.
Trong hai văn bản này hoàn toàn không có dòng chữ nào về vàng thương hiệu quốc gia, không đề cập đến nhãn hiệu SJC.
Ngay chính Ngân hàng Nhà nước, trong một văn bản gần đây nhất, vẫn khẳng định:
- Nhà nước công nhận quyền nắm giữ, mua, bán tất cả các thương hiệu vàng miếng hợp pháp của người dân, không có sự phân biệt đối xử và không hạn chế lưu thông các thương hiệu vàng miếng khác SJC.
- Nghị định 24 và các quy định khác của pháp luật không có quy định nào bắt buộc phải chuyển đổi các loại vàng miếng khác sang vàng miếng SJC.
Khi ra Thông tư 16, hướng dẫn thi hành Nghị định 24, Ngân hàng Nhà nước cũng chưa đề cập đến thương hiện vàng quốc gia cũng như nhãn hiệu SJC.
Đến Thông tư 06, hướng dẫn hoạt động mua, bán vàng miếng trên thị trường trong nước thì Ngân hàng Nhà nước mới quy định loại vàng miếng được giao dịch mua bán: “Ngân hàng Nhà nước mua, bán vàng miếng hàm lượng 99,99%, loại 01 (một) lượng do Ngân hàng Nhà nước tổ chức sản xuất hoặc đã cho phép sản xuất trong các thời kỳ”. Cũng không có cụm từ “thương hiệu vàng quốc gia” hay “SJC”.
Trong lúc đó, phát biểu trước Quốc hội vào ngày 25-11-2012, Thống đốc Nguyễn Văn Bình nói “Nhà nước sẽ độc quyền về sản xuất vàng miếng và trước mắt, SJC sẽ là thương hiệu vàng của Ngân hàng Nhà nước”.
Trước đó vào ngày 4-7-2012, Phó Thống đốc Lê Minh Hưng cũng cho báo chí biết “Ngân hàng Nhà nước đã báo cáo Chính phủ và thống nhất với UBND TPHCM quyết định lựa chọn thương hiệu vàng miếng SJC là thương hiệu vàng miếng của Nhà nước”.
Như vậy luật từ nghị định đến thông tư không đề cập, chỉ có lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước phát biểu một cách chính thức về SJC đã gây ra không biết bao nhiêu là tốn kém, phiền toái và lộn xộn.
- Chỉ tính riêng việc tạm xuất vàng bốn số chín phi SJC rồi nhập lại vàng nguyên liệu cũng bốn số chín về để dập thành vàng SJC, đã lãng phí biết bao nhiêu công sức và chi phí.
- Chênh lệch giá giữa vàng SJC và vàng phi SJC ngày càng lớn cũng do những tuyên bố và cách làm này.
Như vậy rõ ràng NHNN cần phải làm hai việc để chấm dứt sự bất ổn chung quanh vàng.
- Chấm dứt việc bán vàng từ nguồn dự trữ quốc gia vì góp phần tạo nên tình trạng vàng hóa và làm giảm dự trữ ngoại hối quốc gia. Tìm con đường khác để buộc các NHTM tất toán vàng, trả lại cho dân.
- Lãnh đạo NHNN lên chính thức đính chính phát biểu của mình để nói rõ không chọn SJC làm thương hiệu vàng quốc gia.
Chỉ cần làm hai điều đó, tôi nghĩ cũng đã ổn định được thị trường.
Thursday, April 4, 2013
Tăng trưởng kinh tế sau 5 năm gia nhập WTO
"Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam thấp hơn so với kỳ vọng", đó là một trong số các kết quả chính rút ra từ "Báo cáo Đánh giá tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam sau 5 năm gia nhập WTO" của CIEM mới diễn ra đầu tháng 4.2013.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế giai đoạn hậu WTO 2007-2011 đạt trung bình 6,5%/năm thấp hơn nhiều so với mức 7,8%/năm của giai đoạn 2002-2006 và 7,0% từ 1996-2000. GDP thậm chí đã có thể không tăng trưởng được như thế nếu không có gói kích cầu của Chính phủ năm 2009 với giá trị khoảng 9 tỷ USD. Gói kích cầu này rốt cuộc đã giúp kinh tế tăng trưởng 5,3% (2009), 6,78% (2010) và 5,89% (2011). Không dùng biện pháp kích cầu, GDP năm 2009 có lẽ đã chỉ tăng khoảng 4-4,5% (theo tính toán của CIEM).
Tuy vậy, cái giá phải trả khi tung ra gói kích cầu cũng không hề nhỏ. Chỉ giúp GDP tăng khoảng trên dưới 1 điểm phần trăm GDP nhưng những hệ lụy sau này mà gói kích cầu tạo ra như: Bong bóng bất động sản, lạm phát và nợ xấu vẫn còn ảnh hưởng dai dẳng, gây ra nhiều bất ổn vĩ mô cho tới nay.
5 năm sau khi gia nhập WTO, tác động tích cưc của Hội nhập tới tăng trưởng kinh tế vẫn không rõ ràng. Thậm chí cú sốc khủng hoảng kinh tế thế giới và sự thiếu nhất quán trong các chính sách kinh tế vĩ mô giai đoạn 2007-2011 đã làm nhiều chỉ số sút giảm đáng kể.
Trong 6,5% tăng trưởng bình quân năm giai đoạn 2007-2011, tăng trưởng nhờ vốn (K) chiếm tới 3,92 điểm phần trăm, trong khi năng suất các yếu tố tổng hợp (TFP) chiếm vỏn vẹn 0,87 điểm phần trăm. Giai đoạn 2002-2006, tốc độ tăng trưởng bình quân 7,8% có được từ sự đóng góp của các nhân tố sản xuất lần lượt là K (4,16 điểm %), L (1,84 điểm %) và TFP (1,80 điểm %). Tỷ trọng đóng góp của TFP giảm sút cho thấy tính hiệu quả không cao của nền sản xuất vốn còn dựa vào tăng trưởng chiều rộng hơn là chiều sâu.
Bên cạnh đó, không như kỳ vọng ban đầu của các chuyên gia, tốc độ tăng trưởng của các ngành nông, lâm, ngư nghiệp và công nghiệp, xây dựng đều chậm lại so với trước khi gia nhập WTO. Nông, lâm, ngư nghiệp giảm 0,6 điểm phần trăm trong khi công nghiệp, xây dựng giảm tới 3,2 điểm phần trăm so với giai đoạn 2002-2006.
Sau 5 năm trở thành thành viên của WTO, trên khía cạnh tăng trưởng kinh tế, rõ ràng nền kinh tế Việt Nam đang đối diện thách thức nhiều hơn là những cơ hội mà chúng ta đã kỳ vọng khi đàm phán gia nhập tổ chức thương mại toàn cầu này.
Nguồn ảnh: Economica Vietnam
Download: http://bit.ly/12lNtGY
Like Facebook Fanpage để ủng hộ chúng tôi: www.facebook.com/economica.vn
Tuesday, April 2, 2013
Bắt kịp Thái Lan: 10 năm tới, hoặc không bao giờ…
“Gà” cùng một mẹ chớ hoài “đá” nhau…
1. Bộ Công an và Bộ Tư pháp "tranh giành" nhau về đề án thực hiện số định danh cá nhân.
2. Bộ Công an và Bộ Giao thông Vận tải "mắc mớ" trong vấn đề phạt xe không chính chủ, khi mà Bộ trưởng Thăng "tiếp thu" ý kiến người dân rút lại đề xuất dù trước đó có đồng thuận với Bộ Công an, trong khi Bộ Công an vẫn quyết tâm phạt người vi phạm tới nơi tới chốn.
Thursday, March 28, 2013
Nghèo đói là trường Đại học tốt nhất
“Mẹ ít văn hoá, nhưng mẹ nhớ khi nhỏ được thầy giáo dạy là, Golgi có nói một câu: Nghèo đói là trường đại học tốt nhất. Nếu con có thể tốt nghiệp trường đại học này, thì những trường đại học như Thiên Tân, Bắc Kinh con chắc chắn đều đỗ…”
Câu chuyện về ý chí phấn đấu, vươn lên đầy hoài bão này đã thực sự lay động lòng người. Và hơn hết, đó còn là câu chuyện về đức hi sinh của người mẹ. Đã có rất nhiều website đăng tải lại câu chuyện cảm động mà tiến sĩ An Kim Bằng (Jinpeng An), người Trung Quốc, tốt nghiệp toán học tại Đại học Harvard, kể về người mẹ nghèo của mình.
Ngày 5/9/1997, là ngày tôi rời gia đình đi nhập học ở Đại học Bắc Kinh, khoa Toán. Ngọn khói bếp dài cất lên từ trên nóc ngôi nhà nông dân cũ nát gia đình tôi. Người mẹ chân thập thễnh của tôi đang nấu mì sợi cho tôi, những bột mì này có được nhờ mẹ đổi năm quả trứng gà cho hàng xóm, chân mẹ bị thương vì mấy hôm trước, để thêm tí tiền cho tôi nhập học, mẹ đẩy một xe chất đầy rau từ thôn ra thị trấn, trên đường bị trật chân.
Bưng bát mì, tôi đã khóc. Tôi buông đũa quỳ xuống đất, xoa nắn chỗ chân sưng phồng lên to hơn cả cái bánh bao của mẹ, nước mắt rơi xuống đất… Nhà tôi ở Thiên Tân, làng Đại Hữu Đới, huyện Vũ Thanh, tôi có một người mẹ tốt nhất thế gian tên là Lý Diệm Hà. Nhà tôi vô cùng nghèo khó.
Khi tôi ra đời, bà nội ngã bệnh ngay trên giường sưởi, tôi bốn tuổi, ông nội lại mắc bệnh hẹp khí quản và bán thân bất toại, những món nợ trong nhà lớn dần theo năm. Khi bảy tuổi, tôi được đi học, học phí là mẹ vay người khác. Tôi thường đi nhặt những mẩu bút chì bạn bè vứt đi, dùng dây buộc nó lên một cái que rồi viết tiếp, hoặc dùng một cái dây chun xoá sạch những cuốn vở bài tập đã viết, rồi viết lại lên đó, mẹ thương tôi đến mức, cũng có lúc đi vay vài hào của hàng xóm để mua vở và bút chì cho tôi. Nhưng cũng có những khi mẹ vui vẻ, là khi bất kể bài kiểm tra nhỏ hay kỳ thi lớn, tôi luôn đứng đầu, toán thường được 100/100 điểm. Dưới sự khích lệ của mẹ, tôi càng học càng thấy ham thích. Tôi thực sự không hiểu trên đời còn có gì vui sướng hơn được học hành.
Chưa đi học lớp một tôi đã thông thạo cộng trừ nhân chia và phân số, số phần trăm; khi học Tiểu học tôi đã tự học để nắm vững Toán Lý Hoá của bậc Trung học Phổ thông; Khi lên trung học, thành phố Thiên Tân tổ chức kỳ thi vật lý của bậc Trung học, tôi là đứa học trò nông thôn duy nhất của cả năm huyện ngoại thành Thiên Tân được giải, một trong ba người đỗ đầu. Tháng 6 năm đó, tôi được đặc cách vào thẳng trường Trung học số 1 danh tiếng của Thiên Tân, tôi vui sướng chạy như bay về nhà.
Nào ngờ, khi tôi báo tin vui cho cả nhà, mặt bố mẹ chất chứa toàn những đau khổ; bà nội vừa mất nửa năm, ông nội đang gần kề cái chết, nhà tôi đã mắc nợ tới hơn mười nghìn Nhân dân tệ rồi. Tôi lặng lẽ quay về bàn học, nước mắt như mưa suốt một ngày. Đến tối, tôi nghe thấy ở ngoài nhà có tiếng ồn ào. Thì ra mẹ tôi đang định dắt con lừa con của nhà đi bán, cho tôi đi học, nhưng ba tôi không chịu. Tiếng ồn ào làm ông nội nghe thấy, ông đang bệnh nặng, trong lúc buồn bã ông đã lìa đời. Sau lễ an táng ông nội, nhà tôi lại mắc thêm vài nghìn tệ tiền nợ nữa.
Tôi không còn dám nhắc đến việc đi học nữa, tôi cất “Giấy báo nhập học” thật kỹ vào vỏ gối, hàng ngày tôi ra đồng làm việc cùng mẹ. Sau hai hôm, tôi và ba tôi cùng lúc phát hiện ra: con lừa con biến mất rồi. Ba tôi sắt mặt lại, hỏi mẹ tôi:
- Bà bán con lừa con rồi à? Bà bị thần kinh à? Sau này lấy gì kéo, lương thực hoa màu bà đẩy xe tay nhé, bà tự cõng nhé? Bà bán lừa một hai trăm bạc liệu cho nó học được một học kỳ hay là hai học kỳ?
Hôm đó mẹ tôi khóc, mẹ tôi dùng một giọng rất dữ dội rất hung dữ để gào lại ba tôi:
- Con cái mình đòi đi học thì có gì sai? Nó thi lên được trường số 1 của thành phố nó là đứa duy nhất của cả huyện này đấy, tôi không thể để cho tiền đồ của nó bị lỡ dở được. Tôi sẽ dùng tay đẩy, dùng lưng vác, để cho nó đi học…
Cầm sáu trăm tệ mẹ vừa bán lừa, tôi thật sự chỉ muốn quỳ xuống dập đầu trước mẹ. Tôi đã thích được học quá rồi, mà còn học tiếp, thì mẹ sẽ khổ sở bao nhiêu, vất vả bươn chải thêm bao nhiêu? Mùa thu năm đó tôi quay về nhà lấy áo lạnh, thấy mặt ba tôi vàng như sáp, gầy da bọc xương đang nằm trên giường sưởi. Mẹ bình thản bảo: “Có gì đâu, bị cảm, sắp khỏi rồi”. Ai ngờ, hôm sau tôi xem vỏ lọ thuốc của ba, thì thấy đó là thuốc ngăn ngừa tế bào ung thư phát triển. Tôi kéo mẹ ra ngoài nhà, khóc hỏi mẹ mọi chuyện là thế nào, mẹ bảo, từ sau khi tôi đi học, ba bắt đầu đi ngoài ra máu, ngày càng nặng lên.
Mẹ vay sáu nghìn tệ đưa ba lên Thiên Tân, Bắc Kinh đi khắp nơi, cuối cùng xác định là u nhu ruột bowel polyps, bác sĩ yêu cầu ba phải mổ gấp. Mẹ chuẩn bị đi vay tiền tiếp, nhưng ba kiên quyết không cho. Ông nói, bạn bè họ hàng đã vay khắp lượt rồi, chỉ vay mà không trả thì còn ai muốn cho mình vay nữa!
Hàng xóm kể với tôi: Mẹ dùng một phương pháp nguyên thuỷ và bi tráng nhất để gặt lúa mạch. Mẹ không đủ sức gánh lúa mạch ra sân kho để tuốt hạt, mẹ cũng không có tiền thuê người giúp, mẹ bèn gặt dần, lúa mạch chín chỗ nào gặt chỗ đó, sau đó dùng xe cải tiến chở về nhà, tối đến mẹ trải một tấm vải nhựa ra sân, dùng hai tay nắm từng nắm lúa mạch đập lên một hòn đá to…Lúa mạch trồng trên ba mẫu đất của nhà, một mình mẹ làm, mệt đến mức không đứng dậy nổi nữa thì mẹ ngồi xổm xuống cắt, đầu gối quỳ còn chảy máu, đi đường cứ cà nhắc…Không đợi hàng xóm kể hết, tôi chạy như bay về nhà, khóc to gọi mẹ: “Mẹ, mẹ, con không thể đi học nữa đâu…”.
Kết quả, mẹ vẫn tống tôi lên trường. Tiền sinh hoạt phí mỗi tháng của tôi chỉ 60 đến 80 tệ, thật thảm hại nếu so với những người bạn học khác mỗi tháng có 200-240 tệ. Nhưng chỉ mình tôi biết, món tiền nhỏ này mẹ tôi cũng phải tằn tiện lắm, từ ngày đầu tháng đã dành từng hào từng hào, bán từng quả trứng gà, rau xanh lấy từng đồng từng đồng, có lúc dành dụm không đủ đã phải giật tạm vài đôi chục. Mà cha tôi, em trai tôi, dường như chẳng bao giờ có thức ăn, nếu nhà ăn rau cũng chẳng dám xào mỡ, chỉ chan tí nước dưa muối ăn qua bữa. Mẹ không muốn tôi đói, mỗi tháng mẹ chăm chỉ đi bộ hơn mười cây số mua mì tôm với giá bán buôn.
Rồi mỗi cuối tháng, mẹ vất vả cõng một túi nặng lên Thiên Tân thăm tôi. Trong túi ấy ngoài những gói mì tôm ra, còn có nhiều xếp giấy loại mẹ phải đi bộ ra một xưởng in ngoài thị trấn cách nhà 6km để xin cho tôi (đó là giấy để tôi làm nháp toán), cả một chai tương cay rất to, cải bẹ muối thái sợi, và cả một cái tông đơ để cắt tóc. (Cắt tóc nam rẻ nhất Thiên Tân cũng phải 5 tệ, mẹ muốn tôi dành tiền cắt tóc để mua thêm lấy vài cái bánh bao mà ăn).
Khi nói, mẹ không nhìn tôi, mẹ nhìn xa xăm ra con đường đất ngoài kia, nhu thể con đườg ấy dẫn tới tận Thiên Tân, tới Bắc Kinh
Tôi là học sinh cấp 3 duy nhất của Thiên Tân đến cả rau ở bếp ăn nhà trường cũng không mua nổi, chỉ có thể mua vài cái bánh bao, mang về ký túc ăn cùng mì sợi khô hoặc chấm với tương ớt, kẹp dưa muối để ăn qua bữa. Tôi cũng là học sinh duy nhất không có giấy kiểm tra, chỉ có thể tận dụng giấy một mặt của xưởng in để viết bài. Tôi là đứa học sinh duy nhất chưa bao giờ dùng xà phòng, khi giặt quần áo tôi thường đi nhà bếp xin ít bột kiềm nấu ăn (alkali - chất kiềm, dùng để hấp bánh bao, làm bánh nướng, làm nước sôđa) là xong. Nhưng tôi chưa bao giờ tự ti, tôi cảm thấy mẹ tôi khổ cực cả đời, như người anh hùng chống lại đói khổ, làm con của người mẹ như thế tôi rất tự hào. Hồi mới lên Thiên Tân, tiết học tiếng Anh đầu tiên khiến tôi ù cạc. Khi mẹ lên, tôi kể cho mẹ nghe tôi sợ tiếng Anh thế nào, ai ngờ mẹ chỉ cười bảo: “Mẹ chỉ biết con là đứa trẻ con khổ cực nhất, mẹ không thích con kêu khó, vì chịu khổ được thì chả còn gì khó nữa".
Tôi hơi bị nói lắp, có người bảo, học tiếng Anh đầu tiên cần làm chủ được cái lưỡi của mình, bởi vậy tôi thường kiếm một hòn sỏi ngậm vào miệng mình, rồi gắng đọc tiếng Anh. Hòn sỏi cọ xát vào lưỡi tôi, có lúc máu chảy ra bên mép, nhưng tôi cố gắng để kiên trì. Nửa năm trôi qua, hòn sỏi nhỏ đã bị mài tròn đi, lưỡi tôi cũng đã nhẵn, tiếng Anh đã thành người giỏi thứ 3 của lớp. Tôi vô cùng cảm ơn mẹ, lời mẹ khích lệ tôi vượt qua khó khăn lớn trong học tập. Năm 1996, lần đầu tiên tôi được tham gia cuộc thi Olympic tri thức toàn quốc khu vực Thiên Tân, đoạt giải Nhất môn Vật lý và giải Nhì môn Toán học, tôi được đại diện Thiên Tân đi Hàng Châu tham gia Cuộc thi Olympic toàn Trung quốc môn Vật lý. “Đoạt lấy chiếc Cup giải Nhất toàn Trung quốc tặng mẹ, rồi lên đường dự Olympic Vật lý Thế giới!” Tôi không ngăn được nỗi khao khát trong lòng, tôi viết thư báo cho mẹ tin vui và mơ ước của tôi. Kết quả, tôi chỉ được giải Nhì, tôi nằm vật ra giường, không ăn không uống. Dù tôi là người đạt thành tích cao nhất trong đoàn Thiên Tân đi thi, nhưng nếu tính cả những khốn khổ của mẹ tôi vào, thì thành tích này không xứng đáng! Tôi về trường, các thầy ngồi phân tích nguyên nhân thất bại cho tôi thấy: Tôi những muốn phát triển toàn diện cả Toán Lý Hoá, những mục tiêu của tôi quá nhiều nên sức lực tinh thần tôi phải phân tán rộng.
Nếu giờ tôi chỉ chọn một mục tiêu trước mắt là kỳ thi Toán, nhất định tôi thắng. Tháng 1 năm 1997, tôi cuối cùng đã giành chiến thắng tại kỳ thi Olympic Toán toàn Trung Quốc với điểm số tuyệt đối, lọt vào đội tuyển Quốc gia, cả mười kỳ thi kiểm tra ở đội tuyển tôi đều là người đứng đầu. Với thành tích đó, tôi được sang Argentina tham gia kỳ thi Olympic Toán quốc tế. Nộp xong phí báo danh, tôi gói những sách vở cần chuẩn bị và tương đậu cay của mẹ lại, chuẩn bị lên đường. Giáo viên chủ nhiệm và thầy giáo dạy Toán thấy tôi vẫn mặc bộ quần áo thải của người khác cho, những thứ áo quần màu sắc chả đâu vào đâu, kích cỡ khác nhau, bèn mở tủ áo của tôi ra, chỉ vào những áo trấn thủ vá, những áo bông tay đã phải nối hai lần, vạt đã phải chắp ba phân, hỏi tôi: “Kim Bằng, đây là tất cả quần áo của em ư?”
Tôi chả biết nói sao, vội đáp: “Thầy ơi, em không sợ người khác chê cười! Mẹ em thường bảo, Phúc Hữu Thi Thư Khí Tự Hoa - trong lòng có sách vở tất mặt mũi sáng sủa, em mặc những thứ đồ này đi Mỹ gặp tổng thống Clintơn em cũng chẳng thấy ngượng".
Ngày 27/7, Olympic Toán học Thế giới lần thứ 38 chính thức khai mạc. Chúng tôi thi liên tục suốt năm tiếng rưỡi, từ 8 giờ 30 phút sáng tới 2h chiều. Ngày hôm sau công bố kết quả, đầu tiên công bố Huy chương Đồng, tôi không muốn nghe thấy tên mình; Sau đó công bố Huy chương Bạc, cuối cùng, công bố Huy chương Vàng, người đầu tiên, người thứ hai, người thứ ba là tôi. Tôi khóc lên vì sung sướng, trong lòng tự nói: “Mẹ ơi, con mẹ thành công rồi!”
Tin tôi và một người bạn nữa đoạt Huy chương Vàng kỳ thi Olympic Toán học ngay chiều hôm đó đã được Đài phát thanh Nhân dân Trung ương TQ và Đài truyền hình Trung ương TQ đưa. Ngày 1/8, chúng tôi vinh quang trở về, lễ đón long trọng được Hiệp hội khoa học Trung Quốc và Hội Toán học Trung Quốc tổ chức. Khi đó, tôi muốn về nhà, tôi muốn sớm gặp mẹ, tôi muốn chính tay tôi đeo tấm huy chương vàng chói lọi lên cổ mẹ… Hơn mười giờ đêm tối hôm đó, tôi cuối cùng đã đội trời đêm về đến nhà. Người mở cửa là ba tôi, nhưng người một tay ôm chặt lấy tôi vào ngực trước lại chính là mẹ tôi.
Dưới trời sao vằng vặc, mẹ tôi ôm tôi rất chặt…
Tôi lấy tấm huy chương vàng đeo lên cổ mẹ, khóc một cách nhẹ nhõm và sung sướng. Ngày 12/8, trường Trung học số Một của Thiên Tân chật ních người, mẹ được ngồi lên bàn Chủ tịch danh dự cùng với các quan chức Cục giáo dục Thiên Tân và các giáo sư toán học hàng đầu. Hôm đó, tôi đã phát biểu thế này:
“Tôi muốn dùng cả sự sống của tôi để cảm tạ một người, là người mẹ đã sinh và nuôi nấng tôi.
Mẹ tôi là một người phụ nữ nông dân bình thường, nhưng những đạo lý mẹ dạy tôi nên người đã khích lệ tôi cả đời. Năm tôi học lớp 10, tôi muốn mua cuốn sách “Đại từ điển Anh-Trung” để học tiếng Anh, mẹ tôi không có tiền, nhưng mẹ vẫn nghĩ cách giúp tôi. Sau bữa cơm sáng, mẹ tôi mượn một chiếc xe cải tiến, chất một xe rau cải trắng, hai mẹ con tôi đẩy ra chợ huyện cách hơn bốn mươi km bán rau. Đến được chợ đã gần trưa, buổi sáng đó tôi và mẹ chỉ ăn hai bát cháo ngô nấu với khoai lang đỏ, lúc đó bụng đói cồn cào, chỉ mong có ai tới mua cho cả xe rau ngay. Nhưng mẹ vẫn nhẫn nại mặc cả từng bó, cuối cùng bán với giá 1 hào một cân. Hai trăm cân rau đáng lẽ 21 tệ, nhưng người mua chỉ trả 20 tệ. Có tiền rồi tôi muốn ăn cơm, nhưng mẹ bảo nên đi mua sách trước, đó là việc chính của ngày hôm nay. Chúng tôi đến hiệu sách hỏi, giá sách là 8 tệ 2 hào 5 xu, mua sách rồi còn lại 1 tệ 7 hào 5 xu. Nhưng mẹ chỉ cho tôi 7 hào rưỡi đi mua hai cái bánh bột nướng, một tệ kia còn phải cất đi để dành cho tôi làm học phí. Tuy ăn hết hai cái bánh nướng, nhưng đi bộ tiếp 40km về nhà, tôi vẫn đói tới mức hoa mắt chóng mặt, lúc này tôi mới nhớ ra tôi đã quên không phần cho mẹ ăn một miếng bánh nướng nào, mẹ tôi chịu đói cả ngày, vì tôi mà kéo xe suốt 80km đường xa. Tôi hối hận tới mức chỉ muốn tát cho mình một cái, nhưng mẹ tôi chỉ bảo: “Mẹ ít văn hoá, nhưng mẹ nhớ khi nhỏ được thầy giáo dạy là, Golgi có nói một câu: Nghèo đói là trường đại học tốt nhất. Nếu con có thể tốt nghiệp trường đại học này, thì những trường đại học như Thiên Tân, Bắc Kinh con chắc chắn đều đỗ".
Khi mẹ nói thế mẹ không nhìn tôi, mẹ nhìn ra con đường đất xa xôi, cứ như thể con đường đất đó có thể thông tới tận Thiên Tân, đi thẳng tới Bắc Kinh. Tôi nghe mẹ bảo thế, tôi không thấy đói nữa, chân tôi không mỏi nữa…Nếu nghèo đói là trường đại học tốt nhất, thì tôi muốn nói rằng, người mẹ nông dân của tôi chính là người thầy giáo giỏi nhất của đời tôi".
Dưới khán đài, không biết có bao nhiêu đôi mắt đã ướt đẫm, tôi quay về phía người mẹ tóc hoa râm của tôi, cúi người xuống kính cẩn…
Tuesday, March 26, 2013
Tản mạn về khu vực kinh tế hộ cá thể phi nông nghiệp
San sát nhau trong những con phố chật chội của Hà Nội hay rải rác khắp các thôn xóm vùng ven đô, những hàng quán nhỏ bé có thể thấy ở mọi nơi. Một quầy hàng bán đồ ăn sáng hay mấy cửa hàng tạp phẩm thu mình trong một không gian chật hẹp, đó là hình ảnh quen thuộc thường có của hoạt động kinh doanh hộ gia đình. Khi mà thất nghiệp không còn là điều xa lạ, ngày càng nhiều người lao động quan tâm hơn đến việc kiếm kế sinh nhai từ việc kinh doanh tại gia đình. Nhìn xa hơn, với những đóng góp đã có, phải chăng khu vực kinh tế hộ cá thể, đặc biệt là lĩnh vực phi nông nghiệp có thể là một động lực đáng kể để góp phần vực dậy nền kinh tế qua những khó khăn trong hiện tại?
Với quy mô nhỏ không quá mười lao động[1] và sự đa dạng của ngành nghề kinh doanh, trong đó có cả những hình thức kinh doanh không phải đăng ký theo luật, các hộ kinh tế cá thể là điển hình cho kiểu tổ chức kinh tế đơn giản và dễ thích nghi trước những thay đổi của điều kiện kinh tế xã hội. Nếu xét riêng lĩnh vực phi nông nghiệp thì các cơ sở sản xuất kinh doanh của khu vực này hiện đang có những đóng góp quan trọng vào việc làm dân cư và thu nhập của nền kinh tế.
Những ước tính chính thức gần đây của một số tổ chức quốc tế và chuyên gia cho thấy tầm quan trọng đang tăng lên của kinh tế hộ cá thể phi nông nghiệp vào nền kinh tế. Với khoảng hơn 4,23 triệu cơ sở kinh doanh tính đến thời điểm 7/2011, tăng gấp 1,39 lần so với năm 2005, khu vực này là nơi tạo việc làm cho hơn 8,1 triệu lao động, chiếm xấp xỉ 16% dân số 15 tuổi trở lên đang làm việc. Tính chung trong giai đoạn từ 2005-2011, quy mô lao động của khu vực hộ cá thể phi nông nghiệp tăng trưởng bình quân 5,3% mỗi năm. Điều đáng quan tâm là theo tính toán của ILO, có 43,5% lao động trong số đó làm việc trong khu vực kinh tế phi chính thức[2]. Điều ấy một mặt cho thấy việc đăng ký kinh doanh chưa phổ biến đối với các hộ kinh doanh phi nông nghiệp. Mặt khác cũng thể hiện xu hướng chuyển dịch lao động từ khu vực chính thức sang phi chính thức, mà ở đó các cơ sở kinh tế cá thể là nơi tạo công ăn việc làm cho một phần đáng kể lực lượng lao động, đặc biệt là những ngườithất nghiệp tạm thời. Trên khía cạnh tạo thu nhập, với mức đóng góp khoảng 38% vào thu nhập của hộ gia đình ở thành thị và 26% ở nông thôn, nguồn thu từ hoạt động kinh tế phi nông nghiệp có một vị trí quan trọng. Những đặc điểm này đã góp phần giảm nhẹ những cú sốc thất nghiệp và biến cố giảm sút thu nhập của hộ gia đình, đặc biệt trong những thời kỳ kinh tế khó khăn như giai đoạn vừa qua.
Trong giai đoạn từ 2005-2011 nhìn chung tỷ trọng đóng góp trong GDP của kinh tế hộ khá ổn định và có xu hướng tăng nhẹ từ mức 29,9% năm 2005 lên 31,2% năm 2011. Mức đóng góp này không thua kém là mấy so với tỷ trọng 33,03% của khối doanh nghiệp Nhà nước trong GDP năm 2011, dù cho khu vực quốc doanh chiếm tới hơn 45% tổng vốn đầu tư của cả nước, sử dụng 60% vốn vay từ các ngân hàng thương mại và chiếm đến 70% các nguồn viện trợ phát triển. Nếu tính riêng GDP của khu vực ngoài nhà nước[3] thì tỷ trọng của kinh tế hộ cá thể chiếm tới xấp xỉ 65%, cao hơn nhiều so với mức 24% của khu vực kinh tế tư nhân. Xu hướng chững lại của lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp trong sự mở rộng không ngừng của khu vực kinh tế hộ cá thể những năm qua cho thấy: hoạt động sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp đang tăng dần ảnh hưởng trong khu vực kinh tế hộ và là động lực chính tạo ra mức tỷ trọng cao của khu vực này với GDP của nền kinh tế. Với quy mô tổng tài sản và doanh thu thuần vẫn đang có xu hướng tăng lên, trong đó tổng tài sản tăng gấp 2,3 lần trong giai đoạn 2007-2011 và doanh thu thuần năm 2010 gấp 2,68 lần so với 2005, khu vực kinh tế hộ cá thể phi nông nghiệp có triển vọng sẽ đóng góp nhiều hơn cho tăng trưởng kinh tế nói chung những năm tới.
Chính sách nào cho kinh tế hộ?
Dĩ nhiên người ta có thể nhìn nhận kinh tế hộ cá thể phi nông nghiệp với cả sự lạc quan và bi quan. Nhìn nhận một cách lạc quan thì khu vực này luôn khá năng động, dễ thích nghi, có quy mô đang mở rộng và đóng góp đáng kể trong tạo việc làm cũng như tăng thu nhập. Tuy nhiên, những đặc điểm vốn có của kinh tế hộ như sự trì trệ về năng suất lao động, sự lấn át của tính phi chính thức vẫn là điều gây quan ngại khi mà một số tính toán của ILO (2012) cho thấy khoảng 68,2% lao động cá thể phi nông nghiệp không tham gia hình thức bảo hiểm xã hội nào[4]. Các hộ kinh doanh cá thể cũng ít được các chính quyền địa phương ưu tiên khuyến khích như cộng đồng doanh nghiệp bởi lẽ phần lớn khoản thu ngân sách của địa phương đến từ các khoản thuế doanh nghiệp. Vấn đề đặt ra cho các nhà làm chính sách là cần ứng xử ra sao đối với khu vực hộ kinh doanh cá thể phi nông nghiệp để giảm bớt những mặt hạn chế đồng thời có thể lan toả yếu tố tích cực tới tăng trưởng nói chung?
Với đặc điểm tính phi chính thức cao của khu vực này, các chính sách nên hướng tới hai giải pháp lớn: (i) Chính thức hoá những cơ sở kinh doanh cá thể có khả năng; và (ii) Hỗ trợ các nguồn lực cần thiết cho cá cơ sở kinh doanh cá thể còn lại.
Giải pháp “chính thức hoá” thể hiện ở việc có các chính sách khuyến khích, thúc đẩy đăng ký kinh doanh, chuyển đổi các hộ từ phi chính thức, bán chính thức sang hình thức có đăng ký kinh doanh và mã số thuế. Sự dễ dàng tiếp cận vốn vay, khả năng mở rộng nhân lực, tiếp cận được những ưu đãi cho doanh nghiệp và nhận được sự bảo vệ đầy đủ hơn của luật pháp là “phần thưởng” quan trọng cho các hộ kinh doanh phi chính thức nếu chuyển đổi. Trong khi đó, chính quyền địa phương sẽ có được nguồn thu từ thuế và nền kinh tế nhận được một động lực mạnh cho quá trình tăng trưởng. Để làm được điều này các chính sách cần cải thiện hơn nữa về thủ tục đăng ký kinh doanh và thành lập doanh nghiệp, đi cùng với cải cách giảm bớt những gánh nặng thuế, phí qua đó giảm các chi phí cho hộ đăng ký kinh doanh chính thức.
Bên cạnh đó, giải pháp hỗ trợ các nguồn lực cho khu vực hộ cá thể phi nông nghiệp cũng cần được cân nhắc. Chẳng hạn, hỗ trợ về nơi kinh doanh, buôn bán tập trung như hệ thống chợ cho người bán hàng rong hoặc tăng cường tín dụng cho hoạt động của cơ sở kinh doanh phi nông nghiệp qua kênh quỹ tín dụng nhân dân hoặc các tổ chức tín dụng vi mô địa phương có thể là hướng đi cần thiết. Việc đẩy mạnh chương trình đào tạo nghề cho lao động cũng cần triển khai hiệu quả hơn đặc biệt tại nông thôn để tạo cơ hội cho người lao động có tay nghề và chuyên môn tốt.
Hiện tại không có một chiến lược cụ thể nào hướng tới việc phát triển khu vực kinh tế hộ, đó là một thực tế khi mà trong nhiều năm qua các chính sách đã tập trung vào ưu đãi cho các thành phần kinh tế khác mà bỏ quên một động lực đang có vai trò lớn dần trong nền kinh tế. Kinh tế nhà nước kém hiệu quả và thiếu minh bạch, doanh nghiệp tư nhân gắng gượng trong “cơn dông bão” phá sản, đóng cửa đang dữ dội quét qua. Đành rằng đó vẫn là những thành phần chủ đạo trong bức tranh tổng thể nhưng phải chăng đã đến lúc khu vực kinh tế hộ cá thể, đặc biệt lĩnh vực phi nông nghiệp cần được trao cho một vị thế mới xứng đáng?
[1] Theo Nghị định 43/2010/NĐ-CP quy định về việc đăng ký kinh doanh.
[2] Khu vực kinh tế phi chính thức bao gồm các hộ sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp chưa có tư cách pháp nhân, chưa đăng ký kinh doanh nhưng vẫn sản xuất các hàng hóa dịch vụ để bán hoặc trao đổi trên thị trường.
[3] Bao gồm kinh tế tư nhân, kinh tế hộ cá thể và kinh tế tập thể.
[4] Hay còn gọi là “lao động phi chính thức” (informal employment), xem thêm: http://laborsta.ilo.org/informal_economy_E.html
Thursday, February 28, 2013
[Paper] An overview of the non-farm household business sector
In difficult time, it is this business sector that has played the role as the mainstay for the economy, especially in terms of job creation and providing the much-needed income for the people of lower quintiles. Non-farm HHB is a typical feature of Vietnam’s economy and has a longer history of development than any other types of formal enterprises. Non-farm HHB sector continues to provide million of jobs and contribute greatly to economic growth and poverty reduction in Vietnam. However, unlike SOEs or bigger private sector enterprises (especially those in property and financial and banking sectors), these tiny business entities are not benefiting from any bailout measures from the Government. They even do not have an association to clamor for one.
Popular Posts
-
Xác suất kết hợp và xác suất điều kiện là một thước đo nữa của tính phụ thuộc. Xác suất kết hợp của hai sự kiện là xác suất hai sự...
-
My presentation at the Launching Ceremony of Lao Cai's 2015 District Competitiveness Index.
-
Nguồn: Blog "lên đông xuống đoài" Để hiểu ý nghĩa chính trị của đồng euro, cần xem xét các nguyên nhân của nó. Trong mắt người Đức...
-
So khớp tiền mặt có nghĩa là khâu hao tài sản và nợ gần giống nhau. Trong trường hợp đó sẽ không có rủi ro lệch hạn. Tất cả những khe h...
-
Economics In Everyday LIfe from MrRed
-
Hệ thống FTP kết nối quản lý rủi ro toàn diện với các đơn vị kinh doanh và giao dịch. Đó là một phần quan trọng trong quản lý rủi ro ...
-
Below is the reading list to learn about international trade. This list is introduced by Tyler Cowen , an economist, who is running the Marg...
-
Hi! This post is for a brief introduction of a new book which I jointly engaged in writing. Book title: A journey toward linkage: Best prac...
-
Tháng 11/1991, Quốc hội Mỹ thông qua Đạo luật Niềm tin đối với tiết kiệm (TheTrurh In Savmgs,Act). Đạo luật mới yêu cầu các tổ chức nh...
-
Khe hở lãi suất được sử dụng rất rộng rãi vì nó đo lường độ nhạy của thu nhập lãi thực (NII) với sự thay đổi lãi suất, vào thời điểm...