domain, domain name, premium domain name for sales

Thursday, November 24, 2011

Ngành nghề sẽ biến thể sau cơn bão

TS. Alan Phan có những bài viết rất hay.
Đây là một bài như vậy: Ngành nghề sẽ biến thể sau cơn bão
Chờ xem những dự đoán của TS sẽ đúng bao nhiêu % :)

Tuesday, November 22, 2011

Đánh giá về hiệu quả đầu tư

Nguồn: bài viết của tác giả Bùi Trinh
Thời báo Kinh Tế Sài Gòn (số ra ngày 17/11/2011)
Hiệu quả đầu tư được cải thiện hay giảm sút? Để trả lời câu hỏi này cần xem xét mối quan hệ giữa đầu tư và tăng trưởng thông qua một số chỉ tiêu xét trên tổng thể nền kinh tế.
Hiệu quả đầu tư thông qua hệ số ICOR
Hệ số ICOR (Incremental Capital-Output Ratio) thể hiện để tăng một đồng GDP cần đầu tư bao nhiêu đồng. Hệ số ICOR càng cao thì hiệu quả đầu tư càng thấp và ngược lại. Về mặt ý nghĩa kinh tế, hệ số ICOR tính cho một giai đoạn sẽ phản ánh chính xác hơn việc tính ICOR cho hàng năm, vì trong một thời gian ngắn (một năm) có một lượng đầu tư chưa phát huy tác dụng và cũng không phản ảnh được nếu đầu tư dàn trải  (đầu tư xây dựng xong thì bỏ đấy). 
Ở Việt Nam có hai chỉ tiêu phản ảnh về đầu tư, một là chỉ tiêu vốn đầu tư, hai là tích lũy tài sản (gross capital formation). Vốn đầu tư là lượng tiền các thành phần sở hữu bỏ ra nhằm mục đích đầu tư và tích lũy tài sản là lượng tiền đầu tư đến được với sản xuất. Vì vậy, tích lũy tài sản luôn nhỏ hơn vốn đầu tư. Qua tính toán từ số liệu của Tổng cục Thống kê công bố đến năm 2010 (ước tính) cho thấy:
Hiệu quả đầu tư giai đoạn 2006-2010 giảm sút rõ rệt so với giai đoạn 2000-2005.
Lượng tiền bỏ ra nhằm mục đích đầu tư ngày càng ít tham gia vào quá trình sản xuất. Nếu giai đoạn 2000-2005 bỏ ra gần 5 đồng có thể tạo ra 1 đồng tăng thêm của GDP, đến giai đoạn 2006-2010 phải bỏ ra 7,4 đồng mới tạo ra 1 đồng tăng thêm của GDP (xem bảng 1).
Nếu lượng tiền bỏ ra đến được với sản xuất thì hiệu quả đầu tư của chúng ta cũng không phải là quá thấp so với các nước trong khu vực (tham khảo thêm http://www.eria.org/pdf/ERIA-PB-2009-03.pdf).
Khu vực nào đầu tư kém hiệu quả nhất?





Một câu hỏi đặt ra là hiệu quả đầu tư thông qua hệ số ICOR của các thành phần sở hữu ra sao.
Lâu nay hầu hết các nhà kinh tế đều nói đến thành phần kinh tế nhà nước hiệu quả kém nhất, nhưng qua tính toán từ số liệu của Tổng cục Thống kê cập nhật mới nhất (tháng 6-2011) cho thấy khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài mới là khu vực hiệu quả kém nhất (xem bảng 2).
Một điều đáng lưu ý là dù được khai thác dầu khí, được hưởng nhiều ưu đãi về chính sách, nhưng hiệu quả đầu tư của khu vực FDI vẫn thấp. Nguyên nhân là do các báo cáo lỗ, do việc chuyển giá giữa công ty mẹ với các công ty con diễn ra khá phổ biến trong những năm qua.
Chính tình trạng này đã đẩy chi phí sản xuất lên cao và tất yếu là lợi nhuận (theo báo cáo) sẽ giảm, thậm chí nhiều doanh nghiệp FDI báo lỗ, trong khi thực tế họ vẫn lãi nhưng phía Việt Nam lại không thu được thuế. Đấy là chưa kể đến những hệ lụy khác về môi trường, về mất đất nông nghiệp…
Nhiều chuyên gia cho rằng nguyên nhân sâu xa của lạm phát là do hiệu quả đầu tư kém, dẫn đến phá vỡ quan hệ tiền - hàng. Các chuyên gia hầu như chỉ quan tâm đến biểu hiện của lạm phát là do lượng cung tiền mà chưa quan tâm đúng mức tới căn nguyên của lạm phát là hiệu quả đầu tư, hiệu quả sản xuất.
Theo tính toán (xem bảng 2), khu vực FDI không hiệu quả ngay khi lượng tiền đầu tư đến được với sản xuất (9,7). Như vậy có thể nhận thấy khu vực kinh tế tư nhân sử dụng đồng vốn hiệu quả nhất. Khu vực này cũng là khu vực đóng góp nhiều nhất vào GDP trong khi hầu như không được hưởng bất kỳ một ưu đãi nào, chưa kể còn có những bất cập về chính sách gây khó khăn không ít cho doanh nghiệp.Như vậy việc chỉ tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước là chưa đủ trong việc chống lạm phát một cách lâu dài, căn cơ, bền vững. Nhìn nhận lại về khu vực FDI và không kêu gọi đầu tư bằng mọi giá, ở mọi lĩnh vực đối với khu vực FDI là rất cần thiết để nền kinh tế phát triển bền vững.
Nếu lượng tiền bỏ ra nhằm mục đích đầu tư đến được với sản xuất thì hệ số ICOR chỉ là 4,4 trong giai đoạn 2006-2010 và 3,04 trong giai đoạn 2000-2005. Điều này cho thấy nếu lượng vốn đến được với nhà sản xuất thì hiệu quả đầu tư của Việt Nam không phải là kém hiệu quả so với các nước trong khu vực (trừ khu vực FDI).
Vậy vấn đề cốt lõi, căn bản đối với nền kinh tế Việt Nam chính là hiệu quả sản xuất và hiệu quả đầu tư.
So sánh lượng đầu tư và thu nhập từ vốn
Một phương pháp khác để xem đầu tư có quá mức (overinvestment) hay không là so sánh lượng đầu tư hàng năm và tổng thu nhập từ vốn của nền kinh tế. Nếu trong một số năm liên tục mà thu nhập từ vốn luôn nhỏ hơn tổng đầu tư toàn xã hội, điều đó chứng tỏ nền kinh tế đang đầu tư quá mức, hiệu quả đầu tư không đảm bảo bởi toàn bộ lợi tức sinh ra không bù đắp được chi phí đầu tư.























Tính toán thu nhập từ vốn từ bảng cân đối liên ngành của Việt Nam năm 2000, 2007 có thể thấy vào các năm từ 2001-2003, thu nhập từ vốn lớn hơn vốn đầu tư toàn xã hội, nhưng suốt giai đoạn 2003-2010 tỷ lệ giữa thu nhập từ vốn và đầu tư luôn nhỏ hơn 1. Điều này một lần nữa cho thấy hiệu quả đầu tư đang giảm sút và xã hội đang đầu tư quá với lực của mình. Trong trường hợp này cần chủ động giảm mức đầu tư hàng năm. Hoặc cũng có thể nói, nếu vẫn đầu tư theo cấu trúc kinh tế cũ thì hiệu quả đầu tư sẽ ngày càng giảm, nhưng nếu đầu tư theo một cấu trúc kinh tế khác đi hướng tới những ngành có sức lan tỏa về sản xuất, ít lan tỏa đến nhập khẩu, thì hiệu quả đầu tư sẽ dần được cải thiện chứ không nhất thiết phải cắt giảm đầu tư.
So sánh tiết kiệm (savings) của nền kinh tế với đầu tư
Một chỉ tiêu nữa để đánh giá việc đầu tư quá mức là tỷ lệ giữa tiết kiệm và đầu tư. Tiết kiệm là phần còn lại của thu nhập quốc gia khả dụng (NDI(1) trừ đi phần đã tiêu dùng (bao gồm tiêu dùng của dân cư và của Chính phủ). Tiết kiệm là nguồn cơ bản để tái đầu tư, nhưng trong những năm qua (2006-2010) tỷ lệ này ngày càng nhỏ dần. Điều đó có nghĩa là lượng đầu tư quá sức của nền kinh tế ngày càng lớn và quốc gia sẽ phải vay mượn từ bên ngoài để đầu tư.
Năng suất nhân tố tổng hợp
Năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) được tính từ phương pháp ước lượng nguồn tăng trưởng từ hàm sản xuất. Sau khi trừ đi các yếu tố đóng góp về lượng (lao động và vốn) cho tăng trưởng, phần còn lại của tăng trưởng là do đóng góp về sự gia tăng hiệu quả của nền kinh tế, gọi là năng suất nhân tố tổng hợp. Chỉ tiêu này hàm chứa sự gia tăng của việc thay đổi quy trình công nghệ trong sản xuất, quy trình quản lý, năng suất lao động…. Hệ số này càng cao chứng tỏ nền kinh tế càng hiệu quả và ngược lại.
Qua tính toán hệ số này cho hai giai đoạn 2000-2005 và 2006-2010 cho thấy hiệu quả của nền kinh tế giảm rõ rệt. Nếu giai đoạn 2000-2005 hệ số này đóng góp vào tăng trưởng khoảng trên 22%, thì đến giai đoạn 2006-2010 con số này chỉ còn dưới 8,8%. Sự sút giảm về năng suất được bù đắp bằng đầu tư. Nếu giai đoạn trước đóng góp của vốn vào tăng trưởng khoảng trên 50%, thì giai đoạn sau đóng góp của vốn vào tăng trưởng trên 60%.
Kết luận
Việc đầu tư không hiệu quả và quá mức dẫn đến nợ nần và lạm phát gia tăng trong những năm gần đây khiến cho vấn đề tái cấu trúc nền kinh tế trở thành nhu cầu bức thiết. Tuy nhiên, cần nhìn vấn đề này một cách toàn diện mang tính chiến lược và quan trọng hơn cả là thể chế và con người.
_________________________________
(1) Thu nhập quốc gia khả dụng = GDP + thuần thu nhập về sở hữu từ nước ngoài + thuần thu nhập về chuyển nhượng từ nước ngoài + thuế trực thu

Thursday, November 17, 2011

Lược sử cuộc khủng hoảng tại khu vực đồng Euro

Để hiểu ý nghĩa chính trị của đồng euro, cần xem xét các nguyên nhân của nó.
Trong mắt người Đức, cuộc khủng hoảng này chung quy là vì sự hoang phí vô độ. Hy Lạp mở màn khi họ gian dối về tình cảnh của mình và chi tiêu vung tay quá trán (xem bản đồ và biểu đồ) 

Không có gì tranh cãi về sự phung phí của Hy Lạp cũng như việc các nước thành viên đang gặp khó khăn của khu vực đồng euro, trong đó còn có Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và Ý, hiện nay phải giá đắt. Nhưng những nước khác đó không hẳn là hoang phí. Trước khi xảy ra khủng hoảng, chính phủ của cả Ai-len và Tây Ban Nha đều có thặng dư ngân sách. Cả hai nước này đều kỹ lưỡng giữ trong mức giới hạn về thâm hụt và nợ theo quy định của hiệp ước về ổn định và tăng trưởng – chứ không như Đức từng coi thường luật chơi trong bốn năm từ năm 2003 (và không bị trừng phạt). Nước Ý cũng không sa vào vòng tiêu pha phung phí. 
Nợ ở những nước đó đã trở thành gánh nặng không phải vì sự phung phí của chính phủ mà vì mỗi nước đã có một thập niên hưởng lãi suất thấp, và rồi chịu tác động của khủng hoảng tài chính. Tín dụng dễ dãi đã tăng nợ trong các hộ gia đình và khu vực tài chính. Ngân hàng Trung ương Châu Âu đã giám sát sự bùng nổ cho vay xuyên biên giới. Trong thời kỳ khủng hoảng, thất nghiệp và cuộc sống khó khăn càng trở nên trầm trọng, làm tăng chi tiêu của nhà nước cho trợ cấp phúc lợi. Một số nước, như Ái Nhĩ Lan và Tây Ban Nha, đã cần phải tìm nguồn tiền để vực dậy các ngân hàng của họ. Những phí tổn này rơi lên vai nhà nước ngay lúc mà số thu thuế sụt giảm – giảm tới mức thảm họa ở những nước trước đó đã có bùng nổ về bất động sản.
Cùng lúc đó lãi suất tăng lên. Trước khủng hoảng, giới đầu tư giả định rằng không một chính phủ nào trong khu vực đồng euro sẽ bị vỡ nợ. Tuy nhiên, như Peter Boone và Simon Johnson thuộc Viện Peterson ở Washington, DC, giải thích, sau đó Đức báo hiệu rằng có thể xảy ra vỡ nợ, và giới đầu tư sẽ phải gánh một phần thua lỗ - một yêu cầu hợp lý, nhưng khó đưa ra ngay trong lúc đang có khủng hoảng. Một số nhà đầu tư muốn được trả lãi cao hơn để gánh chịu thêm rủi ro và một số nhà đầu tư khác, không muốn trả tiền cho nghiên cứu về tín dụng, chỉ đơn giản rút lui khỏi thị trường. Điều này khơi mào cho vòng xoáy sụt giảm giá trái phiếu, làm suy yếu các ngân hàng và khiến tăng trưởng chậm lại.
Ngay cả ở những nước gặp khó khăn trong khu vực đồng euro vốn từ trước không tiêu xài hoang phí, họ cũng đã từ lâu có thâm hụt tài khoản vãng lai ở mức không bền vững. Lãi suất thấp đã kích thích chi tiêu trong nước và gây lạm phát về mức lương và hàng hóa, mà điều đó lại khiến hàng xuất khẩu của họ trở nên đắt hơn và hàng nhập khẩu tương đối rẻ. Nhưng cũng vì Đức tái sử dụng những khoản thặng dư do cỗ máy xuất khẩu của mình tạo ra, tài trợ cho tiêu dùng của họ.
Nền kinh tế Đức đáng nể về nhiều mặt, nhưng cũng mất cân bằng như các nền kinh tế ngoại biên của khu vực đồng euro. Trong khi quyết tâm tiết kiệm, người Đức dường như quên rằng về dài hạn, mục đích của xuất khẩu là để chi trả cho nhập khẩu. Bây giờ chắc là họ hối tiết khi đã đầu tư những khoản tiết kiệm của mình ra nước ngoài, bỏ tiền vào những khoản cho vay mua nhà dạng rủi ro cao dưới chuẩn (subprime mortgage) của Mỹ và nợ công của Hy Lạp.
Mang nợ là tội là lỗi
Để chấm dứt khủng hoảng, các thành viên khu vực đồng euro hồi tháng trước đã đồng ý xóa sổ một nửa giá trị nợ công của Hy Lạp do khu vực tư nhân nắm giữ, tái cấp vốn cho các ngân hàng của Châu Âu và tăng nguồn quỹ được tạo ra làm tường lửa bảo vệ những chính phủ còn khả năng chi trả trong khu vực đồng euro. Đó là một kế hoạch tham vọng, nhưng Hy Lạp có thể cần được giúp đỡ nhiều hơn, và tường lửa có vẻ chưa đủ mạnh để chống trả một đợt lây lan.
Và ngay cả khi khủng hoảng đã lắng xuống, sẽ phải mất nhiều năm để phục hồi Châu Âu trở lại lành mạnh. Sở dĩ như vậy là do những nước gặp khó khăn cần kiểm soát các khoản thâm hụt ngân sách chính phủ của họ và tái thiết lập các tài khoản vãng lai vững vàng bằng cách cải thiện tính cạnh tranh của họ. Người Đức cảm thấy rằng trách nhiệm của việc điều chỉnh mất nhiều thời gian này hoàn toàn thuộc về các quốc gia con nợ, những quốc gia này phải cấp thiết phục hồi kỷ cương ngân sách. Đáng chú ý là từ tiếng Đức để chỉ nợ, Schulden, là số nhiều của từ Schuld, nghĩa là tội lỗi hay sai lầm.
Tuy nhiên, chiến lược này có nguy cơ tự thất bại. Do yêu cầu thắt lưng buộc bụng ngay lập tức, khu vực đồng euro đang làm trầm trọng hơn tình hình suy thoái ở các nền kinh tế gặp khó khăn, mà điều đó sẽ càng khiến họ khó trả nợ hơn. Phương pháp của Đức sa vào ngụy biện tổng thể (fallacy of composition). Nếu nhà nhà người người tiết kiệm thì làm sao tiến tới thịnh vượng. Như Keynes đã quan niệm sau cuộc Đại Khủng hoảng, phải có ai đó, ở nơi nào đó tiêu dùng. Ở Châu Âu, đó nên là các nước như Đức và Hà Lan vốn đã có thặng dư tài khoản vãng lai rất lớn trong thời kỳ kinh tế bùng nổ. Nhưng các chủ nợ không muốn công nhận rằng họ là một phần của vấn đề.
Các chính phủ chủ nợ, nhất là Đức, lâm vào thế tiến thoái lưỡng nan. Họ cần cứu các chính phủ đang gặp khó khăn để ngăn chặn khủng hoảng lây lan. Mặt khác họ cũng muốn tăng áp lực thị trường để yêu cầu cải cách và thiết lập nguyên tắc là các chính phủ phải tự thân vận động – để người đóng thuế ở Đức sẽ không lãnh chi phí mỗi khi một nước EU nào đó sa đà tiêu xài phung phí. Đến nay Đức đang cố gắng đạt được cả hai điều đó, và chỉ thành công ở chỗ đẩy mọi người lún sâu hơn vào vũng lầy.
Bản tiếng Anh: A very short history of the crisis. The Economist, 12/11/2011

Monday, November 14, 2011

Krugman vs Summers: The debate

x Munk Debates TST-CIA108.jpg


I’m glad I found myself in Toronto this evening, because tonight’s Munk Debate was illuminating and enjoyable. The motion was that “North America faces a Japan-style era of high unemployment and slow growth”; Paul Krugman was arguing for it, while Larry Summers was arguing against.
Krugman found himself with the home-team advantage through being paired with Canadian economist David Rosenberg; Summers had strong rhetorical backup from Eurasia Group’s Ian Bremmer. But at heart, this was Krugman vs Summers, which is an inspired match-up: especially in election season, one of the most important criteria for any debate is that it not cleave easily and obviously along party-political lines. That way people just end up voting their party and rehearsing tired party-political talking points.
This debate, because it took place within a basically Keynesian, leftist worldview, was very interesting. Both Krugman and Summers spent a lot of time saying that they agreed with each other — with one big difference. They both quoted Keynes as diagnosing “magneto trouble” — the engine of the economy is broken, and it needs to be fixed. Summers has faith that, in Churchill’s phrase, “Americans can always be counted on to do the right thing, after they have exhausted all other possibilities” — the right thing, here, being to fix the magneto with expansionary fiscal and monetary policy. Krugman, by contrast, sees political gridlock as far as the eye can see, and says that it doesn’t matter how innovative or philanthropic or demographically attractive the U.S. is — if you don’t fix the magneto, the car won’t start, and America’s magneto ain’t gonna get fixed any time soon.
Economically speaking, the Nobel laureate largely had the better of the technocrat. We’re alreadyfour years from the beginning of the U.S. recession, and we’ve certainly been going nowhere over that time — the question isn’t whether the economy is lost, so much as whether there’s something which can help it back onto its feet in the next few years. As Rosenberg said, if you look at employment, or the stock market, or median income, or house prices, all of them are back to where they were years ago. Things might improve in the future, but they sure aren’t healthy right now. And Japan is proof that economies can stagnate more or less indefinitely — it’s now, as Krugman pointed out, 19 years into its “lost decade”.
And Summers made a couple of surprising rhetorical missteps, for someone who cut his teeth on debate teams. At the very beginning he praised the debate’s sponsors, Peter and Melanie Munk, holding them up as an example of how North American philanthropists help to keep the continent vibrant. But the gesture rang a little hollow, coming as it did from a man who was being paid extremely handsomely to turn up and do the bidding of the Munks’ charitable foundation. Summers is many things, but he’s hardly top of the list of people in need of large philanthropic donations.
Summers also tried to defend inequality, at least in part, by saying that “suppose the United States had 30 more people like Steve Jobs” — that, he said, would be a good thing even as it increased inequality. “So we do need to recognize that a component of this inequality is the other side of successful entrepreneurship; that is surely something we want to encourage.” This might have been received better had Summers not earlier praised America, while pointing to Bremmer, as “the only country in the world where you can raise your first $100 million before you buy your first suit and tie”.
Bremmer is undoubtedly a rich and successful entrepreneur — and one who never wears a tie, to boot — but he’s making money entirely from the 0.1%, and at heart Eurasia Group’s business model is one which does better as the ultra-rich get richer. In the context of a debate about how to rescue the economy for the other 99% of us, it doesn’t much help to point to One Percenters like Jobs and Bremmer who have managed to do well for themselves in an otherwise stagnant economy.
For his part, Bremmer had one theme, and he was sticking to it: the U.S. might be in a mess, but it has stronger fundamentals than other regions, especially Europe and Japan. But Bremmer never explained how being not-as-bad-as-Europe was going to help drag the U.S. out of its current slump, especially when, as Krugman pointed out, every single country to successfully recover from a financial crisis has done so by means of exports.
But here’s the thing: Summers really is a formidable debater. He met Krugman’s gridlock argument head-on, saying that Barack Obama’s legislative achievements in 2009-10 were greater than those in any two year period since 1965-66, or possibly even 1933-34. And in his concluding remarks, he declared that “things are never as bad as you think they are when things are bad”, adding optimistically — and accurately — that in politics, “the transition from inconceivable to inevitable can be very rapid”. Summers’s optimistic sentiment went down well with the well-heeled Toronto crowd: people who are wealthy and healthy and happy, like the Munk Debate audience, tend to be attracted to arguments saying that there’s no need to feel guilty or fearful.
And so, in the end, host Rudyard Griffiths declared a “technical victory” for Summers and Bremmer. They didn’t win a majority of the votes — in fact, they were beaten by Krugman and Rosenberg, 45% to 55%. But Krugman and Rosenberg started the debate with 55% support, while Summers and Bremmer started with just 25%: basically, the undecideds all plumped for Summers over Krugman.
As for me, I entered the debate torn, and I exited it that way as well. There’s something very un-American about doom-mongering, and it’s fair to say that any given economist, at any given point in time, is more likely to be wrong than right. In order for Krugman to be right, he has to be right — right in his analysis, and right in forecasting what the macroeconomic implications of that analysis might be. But the Krugman-Rosenberg teams couldn’t even agree on the analysis: while Krugman was convinced that a bunch of borrowing and spending would fix what ails the economy, Rosenberg was convinced that we’re at the beginning of a massive deleveraging and that you can’t fix an over-indebted economy by piling even more debt onto it.
Krugman is certainly outside the economic consensus, and while that doesn’t mean he’s wrong, it’s certainly prima facie reason to be skeptical about his analysis. Besides, Krugman’s been so pessimistic for so long, now, that it’s almost impossible to imagine what kind of evidence could get him to change his mind and declare that we’re not headed for a lost decade after all. Summers, by contrast, doesn’t think in forecasts so much as in probability distributions — a much less constricting way of thinking.
So, do I think that North America faces a Japan-style era of high unemployment and slow growth? I’ll agree with Summers and Krugman on this one: yes, it does. Will it manage to do what’s necessary to avoid that fate? That’s something no one can know with any certainty. But life’s certainly a lot easier if you believe that it will.


Full video here:  The Munk Debate


Watch live streaming video from munkdebates at livestream.com

Thursday, November 10, 2011

Roubini: Goodbye China, hello Indonesia


If economist Nouriel Roubini was a betting man, he’d  be cashing out of China and doubling down on Indonesia.

On his first trip to south-east Asia’s largest economy, Roubini argued the case for countries with growth models like Indonesia, where nearly two-thirds of GDP is domestic consumption, rather than China, at roughly one third and, as he has previously warned, “could be headed toward a hard landing.”

Indonesia has low inflation, low debt (at about 26 per cent of GDP), young demographics and accelerating growth. China he said, is slowing and has a debt-to-GDP ratio of closer to 80 per cent (though China’s official figure is just 18 per cent).

“Some countries in the region are better positioned for long-term, even growth – countries like Indonesia or India, with 50 – 60 per cent of GDP coming from domestic consumption,” he said.

Indonesia learned a hard lesson during the 1997-1998 financial crisis, when GDP shrank 13 per cent in a year, capital flooded out and the rupiah collapsed. Now, along with most of its south-east Asian neighbours, it has built up “massive reserves” and is in healthy shape.

On the other hand, ”China needs to move away from the growth model and find balanced growth of the other emerging markets, like Indonesia, India and Brazil,” he said.
“It is the time of rising power of the emerging markets and emerging Asia is the fastest growing region in the world. Indonesia is a country that can be very important in the global economy. By the end of the decade it will be the 10th largest economy and by 2030, it could be the 6th.”

So you see, Dr Doom isn’t gloomy about everything.

Tuesday, November 8, 2011

Bốn quốc gia - Bốn bài học


Các nhà hoạch định chính sách kinh tế học được gì từ những thất bại của Pháp, Hy Lạp, Nhật Bản và Zimbabwe?


Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu đối mặt một loạt khó khăn như hiện nay, các chính trị gia và học giả tranh luận quyết liệt về việc phải làm gì tiếp theo để hóa giải thách thức. Nhưng trên thế giới, hiện rất khó có thể tìm được những hình mẫu kinh tế được đánh giá tích cực.

Mặc dù vậy, theo bài viết của Giáo sư kinh tế học Gregory Mankiw thuộc Đại học Harvard đăng tải trên tờ New York Times, trong lịch sử gần đây đã tồn tại những bài học kinh tế từ một số quốc gia mà không một nước nào muốn “đi vào vết xe đổ”, trong đó tiêu biểu là lạm phát ở Zimbabwe, nợ công ở Hy Lạp, giảm phát ở Nhật, và thuế cao ở  Pháp.

Giáo sư Mankiw cho rằng, ở mỗi quốc gia trong số này, các nhà hoạch định chính sách đã vấp phải một kiểu sai lầm chính sách mà chỉ cần sơ ý một chút là dẫn đến hậu quả “chết người”. Giáo sư này khuyến nghị, nước Mỹ cần thuộc lòng những bài học này, vì chính sách kinh tế Mỹ hiện nay có không ít điểm “na ná” chính sách sai lầm mà các quốc gia trên từng áp dụng.

Đối với trường hợp Zimbabwe, nếu có một giải thưởng nào đó dành cho chính sách kinh tế tệ hại nhất thế giới, quốc gia này có lẽ đã nhiều lần “giật giải” trong thập kỷ qua. Đặc biệt, vào năm 2008 và 2009, Zimbabwe đã lâm vào cảnh siêu lạm phát. Giá cả khi đó ở quốc gia châu Phi này tăng với tốc độ kinh hoàng đến nỗi, Ngân hàng Trung ương Zimbabwe phải in ra loại tiền mệnh giá 1 nghìn tỷ Đôla để thuận lợi hơn cho việc thanh toán. Sau đó, Zimbabwe đã ngừng sử dụng đồng nội tệ, nhưng những đồng tiền mệnh giá “khủng” của quốc gia này hiện vẫn có thể mua được với giá khoảng 5 USD.

Theo Giáo sư Mankiw, thật khó có thể hình dung kinh tế Mỹ rơi vào tình trạng lạm phát như Zimbabwe từng trải qua. Tuy nhiên, việc in tiền thiếu kiểm soát đang là nỗi lo của Thống đốc bang Texas, Rick Perry, người đang nuôi hy vọng trở thành ứng cử viên của đảng Cộng hòa trong cuộc bầu cử tổng thống năm sau của Mỹ.

Hồi tháng 8 vừa qua, ông Perry nhận định, sẽ “gần như là tội mưu phản” nếu Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang (FED) Ben Bernanke cho in quá nhiều tiền trước khi diễn ra cuộc bầu cử vào năm 2012. Không chỉ có ông Perry, nhiều chính trị gia Mỹ thuộc cánh tả cũng lo ngại chính sách gần đây của FED nhằm chống lại tỷ lệ thất nghiệp cao có thể châm ngòi cho lạm phát bùng nổ.

Tuy nhiên, ông Bernanke lại tỏ ra ít lo ngại hơn về việc biến nước Mỹ thành một “Zimbabwe thứ hai” hơn là một “Nhật Bản khác”.

Nhật Bản là một siêu cường kinh tế trải qua nhiều thăng trầm. Vào thập niên 1980, nhiều người từng lo ngại sự vươn lên mạnh mẽ của kinh tế Nhật sẽ đe dọa sự thịnh vượng của nước Mỹ, cũng giống như những gì người ta đang lo ngại ngày nay về sự nổi lên của Trung Quốc.

Tuy nhiên, những lo lắng về sức mạnh của kinh tế Nhật hồi những năm 1980 đã nhanh chóng chấm dứt khi bong bóng trên thị trường bất động sản và địa ốc của nước này nổ tung vào đầu thập niên 1990. Kể từ đó tới nay, kinh tế Nhật rơi vào tình trạng chật vật mãi chưa tìm ra lối thoát. Các nhà quan sát có thái độ chỉ trích Ngân hàng Trung ương Nhật (BoJ) cho rằng, BoJ đã tập trung quá nhiều vào việc chống những mối đe dọa lạm phát mà không quan tâm đầy đủ tới việc phục hồi tăng trưởng kinh tế.

Nằm trong số những nhà phê bình này có ông Bernanke, trước khi ông trở thành Chủ tịch FED. Việc dõi theo sự thận trọng và những thất bại của người Nhật chắc chắn là một trong những lý do phía sau sự sẵn sàng của ông Bernanke trong cuộc thử nghiệm những dạng chính sách tiền tệ vào hàng “vô tiền khoáng hậu” thời hậu khủng hoảng tài chính.

Các chuyên gia kinh tế trong chính quyền của Tổng thống Barack Obama cũng nhận thức rõ về những điều tồi tệ mà kinh tế Nhật đã và đang trải qua. Đó là lý do vì sao họ đang ra sức thúc đẩy hoạt động chi tiêu để kích thích nhu cầu tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ.

Tuy nhiên, chính sách tài khóa này đi kèm với không ít rủi ro. Một kinh kinh tế Mỹ càng phụ thuộc vào hoạt động chi tiêu của Chính phủ, thì khả năng nước này rơi vào một cuộc khủng hoảng nợ công như đang diễn ra ở Hy Lạp lại càng lớn. Việc hãng định mức tín nhiệm Standard & Poor’s hạ điểm tín nhiệm Mỹ hồi tháng 8 vừa qua là một điềm báo cho những gì có thể xảy đế phía trước. Trong dài hạn, nước Mỹ cần cắt giảm nợ, hoặc đối mặt với những hậu quả không mấy dễ chịu.

Ở thời điểm hiện tại, thị trường trái phiếu dường như chưa mấy lo ngại về khả năng trả nợ của Chính phủ Mỹ. Vì thế, nước Mỹ vẫn vay được tiền vỡi lãi suất thấp. Nhưng đây cũng chính là những gì đã diễn ra đối với Hy Lạp 4 năm trước. Một khi thị trường trái phiếu thay đổi thái độ, tình thế sẽ thay đổi rất nhanh chóng, dẫn tới một vòng xoáy tăng lãi suất chóng mặt, tăng số tiền lãi phải trả và thâm hụt ngân sách, cùng với sự giảm sút niềm tin.

Nước Mỹ đang được hưởng lợi ích từ sự hoài nghi của thị trường trái phiếu, một phần vì nợ của các quốc gia khác có vẻ như rủi ro hơn, và một phần vì niềm tin rằng nước Mỹ sẽ đưa tình trạng nợ nần của mình về trật tự đúng lúc. Nhưng vấn đề chính trị lớn đặt ra là nước Mỹ sẽ làm việc này như thế nào.

Washington hiện đang đối mặt với một quyết định mang tính nền tảng về những ưu tiên kinh tế. Để duy trì mức thuế hiện nay, nước Mỹ cần giảm mạnh chi tiêu cho mạng lưới an sinh xã hội. Nếu không, nước Mỹ có thể duy trì mạng lưới an sinh hiện nay và phải tăng mạnh thuế để chi trả. Hoặc cũng có thể lựa chọn sự kết hợp giữa cắt giảm chi tiêu và tăng thuế. Mà cách làm này lại dẫn tới nguy cơ rơi vào tình huống như trong bài học từ kinh tế Pháp.

Có hai sự thật cần biết về kinh tế Pháp. Thứ nhất, GDP/đầu người của Pháp thấp hơn 29% so với của Mỹ, phần nhiều vì người Pháp có số giờ làm việc trong đời ít hơn người Mỹ. Thứ hai, người Pháp bị đánh thuế cao hơn người Mỹ. Năm 2009, thuế tương đương 24% GDP của Mỹ, nhưng tương đương 42% GDP của Pháp.

Các chuyên gia kinh tế tranh cãi nhiều về việc liệu có phải mức thuế cao ở Pháp và các quốc gai châu Âu khác là lý do khiến người lao động ở các quốc gia này giảm nỗ lực làm việc, và vì thế giảm thu nhập. Tuy nhiên, nguyên nhân lại có thể nằm ở việc người châu Âu ưa hưởng thụ cuộc sống hơn là làm việc cật lực như người Mỹ.

Đâu là lý do xác thực sẽ cần phải có thời gian để xác minh. Trong những thập kỷ tới đây, nếu các nhà hoạch định chính sách Mỹ không cắt giảm chi tiêu, họ sẽ buộc phải tăng thuế tới gần mức thuế của các nước châu Âu. Khi đó, rất có thể thế hệ người Mỹ tiếp theo sẽ làm việc ít hơn, để kiếm tiền ít hơn, và dành thời gian ngồi quán café nhiều hơn.

Theo Taichinhthegioi.net

Popular Posts